Doanh nghiệp Việt dấn thân với tâm thế chủ động
Ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW, chính thức khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tư nhân trong phát triển đất nước. Nghị quyết không chỉ thể hiện sự thay đổi trong tư duy hoạch định chính sách, mà còn tạo nền tảng để tháo gỡ các rào cản về vốn, đất đai, công nghệ, tài nguyên – những yếu tố lâu nay khiến khu vực tư nhân gặp khó khi muốn mở rộng đầu tư.
Chỉ hơn một tháng sau, ngày 19/6, Thủ tướng Phạm Minh Chính ký Quyết định 1186/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai Nghị quyết 68, thể hiện quyết tâm đưa chính sách vào thực tiễn. Ban Chỉ đạo được trao quyền tham mưu, điều phối và giám sát toàn diện, với cơ chế làm việc linh hoạt, có sự tham gia của cả chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp.
Từ chính sách đến hành động, khu vực tư nhân đã nhanh chóng nhập cuộc. Nổi bật là sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vào dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam. Hiện có 5 nhà đầu tư trong nước đăng ký tham gia, trong đó VinSpeed và THACO đều đề xuất hình thức xã hội hóa với cam kết cụ thể về tiến độ và chất lượng thi công. Ngoài ra còn 3 cái tên gồm liên danh Mekolor – Great USA, Công ty CP Xây dựng Thăng Long Quốc gia và Công ty CP Vận tải Đường sắt Việt Nam. Nghị quyết cũng mở ra cơ hội cho các nhà thầu hạ tầng trong nước, khi tiêu chí lựa chọn ưu tiên năng lực thực tế và kinh nghiệm nội địa.
Không chờ cơ chế đến mới chuyển động, nhiều doanh nghiệp đã chủ động chuẩn bị nguồn lực để nắm bắt cơ hội. Tập đoàn Đèo Cả sớm thiết lập liên kết với các trường đại học và đối tác quốc tế nhằm xây dựng năng lực thi công tuyến đường sắt cao tốc. Công ty CP Lizen (LCG) khẳng định có đủ năng lực thực hiện các gói thầu lớn và kỳ vọng được chỉ định tham gia. Fecon (FCN) xác định đường sắt tốc độ cao là lĩnh vực chiến lược dài hạn, đang đầu tư mạnh cho đào tạo và chuyển giao công nghệ. Hòa Phát (HPG), ở vai trò cung ứng vật liệu, đã bắt tay vào xây dựng nhà máy sản xuất ray và thép đặc chủng theo chỉ đạo trực tiếp từ Thủ tướng.
Sự nhập cuộc quyết liệt, chủ động và có chiến lược của doanh nghiệp tư nhân đang cho thấy một chuyển động đáng chú ý trong cách nền kinh tế Việt Nam tiếp cận các dự án trọng điểm. Đó không còn là cuộc chơi độc quyền của khu vực công hay vốn ngoại, mà là bước khởi đầu cho một giai đoạn mà doanh nghiệp Việt sẵn sàng đóng vai trò trung tâm, với tâm thế mới và tầm nhìn dài hạn.
Vận hàng đường sắt cao tốc cũng rất quan trọng
Để vận hành tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, Việt Nam sẽ cần tới gần 14.000 người lao động được huấn luyện theo các tiêu chuẩn kỹ thuật mới.
Đây là chia sẻ của ông Hoàng Gia Khánh – Tổng Giám đốc Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) tại tọa đàm “Đường sắt tốc độ cao – Thời cơ và thách thức” do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức vào cuối năm 2024.
Con số này được xác định từ việc đánh giá toàn bộ chuỗi vận hành của một hệ thống đường sắt tốc độ cao hiện đại, bao gồm lái tàu, điều độ, kỹ sư tín hiệu – điện, bảo trì đường ray, vận hành trung tâm điều khiển, an toàn kỹ thuật, hậu cần nhà ga và dịch vụ hành khách. Ông Khánh nhấn mạnh: đây là con số chưa từng có tiền lệ trong lịch sử ngành đường sắt Việt Nam.
Theo Nghị quyết 172/2024/QH15 của Quốc hội, dự án sẽ được triển khai theo hình thức đầu tư công. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam không phải là chủ đầu tư, nhưng sẽ giữ vai trò trọng yếu: tiếp nhận, quản lý, bảo trì hạ tầng và tổ chức vận hành toàn bộ tuyến đường.
Theo ông Khánh, Công ty hiện có khoảng 22.000 lao động, phần lớn phục vụ đường sắt truyền thống. Tuy nhiên, việc vận hành hệ thống tốc độ cao đòi hỏi một trình độ hoàn toàn khác, cả về kỹ thuật lẫn tổ chức. Chính vì vậy, một kế hoạch tái cơ cấu bộ máy và tổ chức đào tạo chuyên sâu đang được Tổng công ty phối hợp triển khai cùng Bộ GTVT.
Trong bối cảnh dự án đang đi vào giai đoạn chuẩn bị gấp rút, quá trình chuẩn bị nhân lực cũng rất quan trọng, bởi thời gian đào tạo đội ngũ vận hành tàu cao tốc trên thế giới thường kéo dài từ 5 đến 8 năm. Nếu tận dụng được lực lượng đã có kinh nghiệm từ hệ thống đường sắt hiện nay, thời gian có thể rút xuống còn 3 đến 5 năm, như ông Khánh đề cập.
Được biết, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam đang chủ động bố trí lực lượng hiện hữu sang học tập tại các quốc gia có kinh nghiệm trong vận hành đường sắt cao tốc như Nhật Bản, Hàn Quốc. Việc này không chỉ nhằm rút ngắn thời gian làm chủ công nghệ mà còn tiết kiệm đáng kể chi phí đào tạo so với xây dựng lực lượng từ đầu.
Dù vậy, khó khăn vẫn còn hiện hữu. Cho đến nay, Việt Nam chưa có cơ sở đào tạo chuyên biệt cho ngành đường sắt tốc độ cao. Việc xây dựng trung tâm huấn luyện, mô phỏng vận hành và chuẩn hóa bộ tiêu chí nghề nghiệp cần được bắt đầu song song với quá trình lập báo cáo khả thi dự án.
Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia nhiều lần nhấn mạnh: nếu không chuẩn bị bài bản từ sớm, Việt Nam sẽ đối mặt nguy cơ phụ thuộc dài hạn vào chuyên gia nước ngoài, không chỉ trong giai đoạn xây dựng mà còn cả vận hành, bảo trì và khai thác thương mại.
Do đó, vấn đề nhân lực không thể tách rời khỏi mục tiêu nội địa hóa công nghệ đường sắt – điều mà cả Bộ GTVT và các bộ, ngành liên quan đều đã xác định là một trong những trụ cột triển khai dự án. Từ việc vận hành đầu máy, kiểm soát tín hiệu, cho đến bảo trì cầu cạn, đường ray, điện khí hóa – tất cả đều cần con người Việt Nam làm chủ.
Nguồn: https://kinhtechungkhoan.vn/khi-5-doanh-nghiep-con-dang-cho-phe-duyet-dau-tu-duong-sat-cao-toc-bac-nam-mot-don-vi-da-lang-le-khoi-hanh-1386187.html