Doanh nghiệp ngành cao su và bài toán liên kết chuỗi

Là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng cao su ra thị trường quốc tế, song các doanh nghiệp ngành cao su đang đứng trước bài toán khó khi có trên 60% cao su nguyên liệu có nguồn gốc từ các hộ tiểu điền không đáp ứng được quy định chống mất rừng (EUDR) của Châu Âu (EU)..

Nhiều tồn tại trước quy định mới của EU

Cao su là một trong 7 nhóm hàng hóa chịu sự điều chỉnh của EUDR. Theo EUDR, mặt hàng này sẽ không được tiêu thụ tại thị trường EU nếu quá trình sản xuất gây mất rừng, suy thoái rừng và các hoạt động trong chuỗi cung không tuân pháp luật của nước sản xuất.

EUDR được chính thức áp dụng từ ngày 30/12/2025 với các DN nhập khẩu vào EU có quy mô lớn và từ 30/6/2026 đối với các DN nhập khẩu có quy mô nhỏ và vừa.

Mốc thời gian để xác định việc mất rừng là ngày 31/12/2020. Nếu cao su nguyên liệu được sản xuất trên diện tích đất được chuyển đổi từ rừng sau thời điểm 31/12/2020 thì cao su nguyên liệu và sản phẩm cao su sử dụng nguyên liệu này không được phép nhập khẩu vào EU.

Theo số liệu thống kê, năm 2024 tổng diện tích trồng cao su của Việt Nam là khoảng 910.000 ha, với 80% diện tích này đang trong tuổi thu hoạch mủ, cung cấp 1,3 triệu tấn mủ nguyên liệu (quy khô). Diện tích này bao gồm khoảng 488 nghìn ha từ 264 nghìn hộ tiểu điền, với lượng cung khoảng 819 nghìn tấn, chiếm 54% về diện tích và 63% về sản lượng của cả ngành.

Hiện Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng cao su tới 180 quốc gia và vùng lãnh thổ. Thị trường nhập khẩu các mặt hàng cao su của Việt Nam đa dạng, tuy nhiên ba thị trường lớn nhất của Việt Nam lần lượt là Trung Quốc (30,3%), Hoa Kỳ (18,6%), EU (7,4%), các thị trường khác (43,7%) (số liệu năm 2024)

Kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng, từ 5,5 tỷ USD năm 2020 lên gần 8,5 tỷ USD năm 2024, bao gồm cả cao su tự nhiên (CSTN) và sản phẩm cao su (SPCS).


Diễn tích cao su Tiểu điền đang tăng lên vượt diện tịch cao su đại điền. Ảnh: Forest Trends

Báo cáo do Forest Trends và Hiệp hội Cao su Việt Nam (VRA) vừa công bố chỉ ra rằng: Chuỗi cung cao su tiểu điền của Việt Nam đang ẩn chứa một số tồn tại lớn, bao gồm thiếu hệ thống truy xuất trong toàn bộ chuỗi, thiếu dữ liệu nền về tọa độ, ranh giới thửa đất mà hộ canh tác, đứt gãy về thông tin và các bằng chứng giao dịch giữa các khâu trong chuỗi, đặc biệt giữa hộ và các đại lý thu mua và giữa các đại lý. Ngoài ra, một số đại lý hoạt động không chính thức, không có đăng ký kinh doanh, giao dịch giữa các đại lý không lưu trữ đầy đủ hồ sơ phục vụ mục đích truy xuất. Doanh nghiệp (DN) chế biến, nhất là nhóm DN vừa và nhỏ thiếu công cụ và nguồn lực để kiểm soát nguyên liệu đầu vào.

“Các tồn tại này mang tính chất phổ biến trong chuỗi cung tiểu điền hiện nay. Với tính chất phổ biến của các tồn tại nêu trên, hầu hết chuỗi cung hiện nay có sự tham gia của các hộ tiểu điền không đáp ứng được với các yêu cầu của EUDR…’- ông Tô Xuân Phúc, chuyên gia Forest Trends nhấn mạnh.

Mới chỉ có 4 doanh nghiệp xây dựng được chuỗi liên kết

Ông Phan Trần Hồng Vân (VRA) cho biết, trong chuỗi cung ứng cao su (hộ trồng cao su, đại lý thu mua, DN) thì DN đóng vai trò hết sức quan trọng. DN bao gồm DN chế biến CSTN (sơ chế), DN sản xuất SPCS (tinh chế), và các DN phân phối/tiêu thụ.

Để đáp ứng yêu cầu về báo cáo trách nhiệm giải trình của mình theo quy định của EUDR, nhà nhập khẩu EU phải đảm bảo các tác nhân trong chuỗi cung ứng (bao gồm hộ trồng cao su, đại lý thu mua, nhà máy chế biến) phải thu thập và cung cấp/chuyển giao đầy đủ thông tin cần thiết cho nhà nhập khẩu.

“Thiếu thông tin từ bất cứ khâu nào của chuỗi, bao gồm thông tin từ hộ tiểu điền đồng nghĩa với việc chuỗi không đáp ứng được các yêu cầu của EUDR và sản phẩm tạo ra bởi chuỗi sẽ không được chấp nhận tại EU…”- Đại diện VRA lưu ý.

Từ thực tế đó, trong ngành hiện đang xuất hiện những mô hình tiên phong trong việc tái cấu trúc chuỗi cung tiểu điền nhằm đáp ứng EUDR.

Cụ thể, một số DN tư nhân trong ngành kết hợp với hộ và các đại lý thu mua tổ chức lại các hoạt động của chuỗi nhằm đáp ứng việc truy xuất, thu thập thông tin và các bằng chứng dữ liệu về đất đai, bản đồ và của các giao dịch trong chuỗi nhằm đáp ứng EUDR.

Tuy nhiên, đến thời điểm tháng 1/2025, mới có 4 DN tư nhân đã xây dựng được chuỗi cung với sự tham gia của các hộ tiểu điền đáp ứng EUDR. Tổng diện tích trong các mô hình này khoảng 17.500 ha, thuộc sở hữu của 6.000 hộ, khoảng 4.600 tấn CSTN đáp ứng EUDR trong các mô hình này đã được xuất khẩu, với giá bán cao hơn từ 150- 300 USD/tấn so với mặt hàng cùng chủng loại nhưng chưa đáp ứng EUDR.


Chỉ có hơn 2% hộ tiểu điền )6.000/264.000 hộ) có sản phẩm đáp ưng yêu cẩu của EUDR. Ảnh: VRA

Khách hàng nhập khẩu các sản phẩm này không chỉ là nhà nhập khẩu EU mà còn từ Trung Quốc và Ấn Độ. Có thể khách hàng từ các quốc gia này nhập để chế biến SPCS sau đó xuất khẩu sang EU.

“Rõ ràng, sự thành công của các mô hình này cho thấy tiềm năng nhân rộng mô hình trong chuỗi cung cao su tiểu điền nếu hội tụ đủ các điều kiện cần thiết…”- Chuyên gia Forest Trends nhận định.

Đồng thời khẳng định, việc đáp ứng EUDR đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa DN, hộ tiểu điền, đại lý, chính quyền địa phương và các bên liên quan khác…

“Trọng tâm của quá trình này là thiết lập cơ chế liên kết chặt chẽ giữa các bên trong chuỗi; thống nhất và áp dụng hệ thống thông tin truy xuất toàn bộ chuỗi; hỗ trợ hộ thu thập thông tin; và khuyến khích hình thành nhóm hộ để giảm chi phí giao dịch và nâng cao vị thế của hộ khi liên kết với các DN trong chuỗi…”- ông Phúc cho biết thêm.

Chuyên gia Forest Trends cũng được biệt lưu ý, các đại lý thu mua cần được chính thức hóa hoạt động, có trách nhiệm minh bạch thông tin và tuân thủ pháp luật; Chính quyền đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giữa DN và các hộ tiểu điền, cung cấp thông tin và các bằng chứng minh chứng tính pháp lý cho các diện tích đất trồng cao su của hộ, cung cấp dữ liệu nền tảng như bản đồ rừng 2020, cơ sở dữ liệu vùng trồng.

“Các hộ tiểu điền, các đại lý thu mua và các DN quy mô vừa và nhỏ là nhóm dễ bị tổn thương do thiếu nguồn lực, thông tin và hạn chế về năng lực. Các nhà nhập khẩu từ EU và từ các thị trường khác cần cân nhắc về các hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và đồng hành cùng các DN Việt Nam trong xây dựng hệ thống truy xuất, tái cấu trúc chuỗi hiện nay theo hướng cho phép truy xuất và giảm rủi ro trong khâu tuân thủ pháp luật trong các hoạt động của chuỗi. Các DN trong ngành với nguồn lực sẵn có, đặc biệt là các DN lớn đang hoặc có kế hoạch thu mua cao su từ hộ nên hỗ trợ hộ trồng và các đại lý thu mua cao su nhằm thay đổi các hoạt động hiện tại, tuân thủ với các yêu cầu của EUDR. ”- Chuyên gia Forest Trends đề xuất.

Thanh Thanh-Link gốc

Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/doanh-nghiep-nganh-cao-su-va-bai-toan-lien-ket-chuoi/33200672

Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *