Trong bức tranh kinh tế Việt Nam hiện nay, hai gam màu nổi bật cùng xuất hiện: những ngành công nghiệp truyền thống như thép, dệt may đang gánh áp lực tái cấu trúc, trong khi nhóm doanh nghiệp công nghệ, dịch vụ số và tài chính lại mở ra những cơ hội mới. Lãnh đạo các DN đã có những thông điệp khác nhau nhưng cùng chung một điểm: để kinh tế Việt Nam bứt phá, cần một “cú hích” chính sách, sự đồng hành của Nhà nước, và quyết tâm đổi mới từ chính doanh nghiệp.
Hơn ba thập kỷ đổi mới đã đưa kinh tế Việt Nam vươn lên nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, với quy mô GDP năm 2025 ước đạt 500 tỷ USD. Tuy nhiên, để duy trì đà tăng trưởng trong giai đoạn tới, Việt Nam không thể chỉ dựa vào các lợi thế truyền thống như lao động giá rẻ hay gia công xuất khẩu.
Những ngành công nghiệp truyền thống từng đóng vai trò trụ cột như thép, dệt may, chế biến gỗ… đang phải đối diện với sức ép tái cấu trúc, trong khi kinh tế số, đổi mới sáng tạo, công nghệ mới nổi lên như những động lực tiềm năng nhưng chưa có khung chính sách rõ ràng.
Chính trong bối cảnh này, tiếng nói từ cộng đồng doanh nghiệp trở thành kênh phản ánh quan trọng về nhu cầu và kỳ vọng đối với Chính phủ. Tại các diễn đàn, lãnh đạo các tập đoàn, đã mang đến những góc nhìn khác nhau, phản ánh cả thách thức lẫn cơ hội, đồng thời gửi đi thông điệp về nhu cầu đồng hành mạnh mẽ hơn giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
Trụ cột truyền thống: Thép và dệt may trước sức ép tái cấu trúc
Ông Nguyễn Việt Thắng – Tổng giám đốc Tập đoàn Hòa Phát cho biết, hiện nay, Việt Nam đứng thứ 12 thế giới và đứng đầu Đông Nam Á về sản xuất thép. Tuy nhiên, thực tế trong nước vẫn chủ yếu sản xuất thép xây dựng, trong khi thép chế tạo, thép hợp kim – vốn là vật liệu cốt lõi cho công nghiệp hiện đại thì sản xuất còn hạn chế.
Đặc thù ngành thép là thâm dụng vốn lớn, chỉ những doanh nghiệp có tích lũy lâu dài mới có thể đầu tư thượng nguồn. Ở Việt Nam hiện có hai tổ hợp thép lớn là Hòa Phát ở Dung Quất và Formosa Hà Tĩnh. Hòa Phát, sau hơn 30 năm phát triển, mới có thể vươn lên nhóm nhà sản xuất thép lớn của thế giới.
Vấn đề nằm ở thị trường. Thép là sản phẩm nền tảng, phục vụ hầu hết các ngành từ xây dựng, cơ khí, đóng tàu, năng lượng đến đường sắt. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cơ khí trong nước phần lớn là doanh nghiệp nhỏ có nhu cầu rất hạn chế. Mỗi năm, họ cần nhiều chủng loại thép khác nhau, nhưng chỉ khoảng 10 – 20 tấn. Trong khi một mẻ sản xuất của Hòa Phát là 300 tấn, tức phải dùng vài ba năm mới hết.
Trong bối cảnh đó, ông Thắng chia sẻ, Hòa Phát xác định phải đi trước, chấp nhận rủi ro đầu tư. Doanh nghiệp đã đầu tư nhà máy sản xuất thép ray đường sắt, loại sản phẩm chưa từng có doanh nghiệp Việt Nam nào làm được, chứ chưa nói tới thép ray tốc độ cao. Khi nhiều nhà đầu tư và ngân hàng lo ngại “nếu Chính phủ không mua thì sao?”, Hòa Phát khẳng định niềm tin rằng Nhà nước sẽ đặt hàng nếu doanh nghiệp sản xuất ra sản phẩm chất lượng với chi phí hợp lý.
Ông Lê Tiến trường – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex)
Nếu ngành thép trăn trở về thị trường đầu ra, thì ngành dệt may lại đối diện với một thách thức khác: tăng trưởng chậm lại.
Ông Lê Tiến trường – Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết, tốc độ tăng trưởng bình quân dệt may toàn cầu chỉ khoảng 1,7%/năm, khiến việc duy trì tăng trưởng 5 – 7% đã là khó, chứ chưa nói đến 10%.
“Dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động, từng là động lực tăng trưởng giai đoạn đầu của nhiều nền kinh tế châu Á. Nhưng khi thu nhập bình quân đầu người tiến gần 5.000 USD, nếu chỉ trông vào gia công và xuất khẩu quần áo, chúng ta sẽ rơi vào ngõ cụt,” lãnh đạo Vinatex nhấn mạnh.
Theo phân tích, GDP tăng trưởng không chỉ dựa vào xuất khẩu, mà còn từ thặng dư xuất – nhập khẩu và năng suất lao động. Muốn nâng năng suất, không còn con đường nào khác ngoài ứng dụng công nghệ số, tự động hóa, robot hóa, trí tuệ nhân tạo (AI). Vinatex cũng đặt mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu từ mức hiện tại khoảng 50% lên cao hơn, thay vì phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu.
“Ngay cả khi đã đạt hơn 10.000 USD GDP/người, Trung Quốc vẫn xuất khẩu tới 350 tỷ USD dệt may. Khác biệt ở chỗ họ xuất khẩu cả nguyên liệu, vải, sợi – những thứ tạo giá trị cao. Nếu Việt Nam chỉ gia công quần áo, sẽ mãi bị kìm ở khâu cuối cùng của chuỗi giá trị,” lãnh đạo Vinatex nói.
Về bài toán thương hiệu, ông Trường thừa nhận: dệt may Việt Nam khó có thương hiệu toàn cầu vì thiếu ba yếu tố: thị trường nội địa đủ lớn, nền văn hóa đặc sắc để xây dựng thương hiệu, và chủ động công nghệ lõi. Vì vậy, giải pháp trước mắt là đẩy mạnh tự động hóa, tăng tỷ lệ nội địa hóa và củng cố thị trường trong nước.
Kinh tế số cần hành lang chính sách
Nếu thép và dệt may gặp khó ở thị trường và năng suất, thì nhóm doanh nghiệp công nghệ và tài chính số lại đứng trước một bức tranh khác: tiềm năng lớn nhưng thiếu khung chính sách.
Ông Trần Kim Trung – Chủ tịch CT Group, nhấn mạnh đến khái niệm “kinh tế không gian tầm thấp (LAE)” – một lĩnh vực mới tại Việt Nam nhưng đang phát triển mạnh ở Trung Quốc, Indonesia. LAE khai thác tài nguyên không gian dưới 3.000m, ứng dụng trong nông nghiệp, giao thông, logistics, năng lượng, đô thị thông minh và quốc phòng.
“Chỉ trong hai năm, quy mô kinh tế không gian tầm thấp của Trung Quốc đã đạt hàng trăm tỷ USD. Đây là minh chứng rằng Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc,” ông Trung phân tích.
CT Group kiến nghị Chính phủ sớm xây dựng cơ chế đặt hàng, sandbox thử nghiệm, ưu đãi thuế, chính sách quản lý dữ liệu và tiêu chuẩn kỹ thuật, để mở đường cho doanh nghiệp tham gia đầu tư.
Ông Nguyễn Trung Chính, Chủ tịch CMC Group
Trong khi đó, ông Nguyễn Trung Chính – Chủ tịch CMC Group chia sẻ: doanh nghiệp công nghệ Việt Nam đủ khả năng gánh vác các “nhiệm vụ quốc gia”, nhưng vấn đề cốt lõi là phải có hợp đồng và sự bảo đảm từ Nhà nước. Chúng tôi không chờ ưu đãi, nhưng nếu có thêm bệ đỡ chính sách, doanh nghiệp công nghệ Việt Nam chắc chắn đủ sức cạnh tranh quốc tế.
Ông Mã Tuấn Trọng – CEO Grab Việt Nam, nhấn mạnh Grab coi Việt Nam là thị trường trọng điểm, đã đặt trung tâm công nghệ khu vực tại TP.HCM từ năm 2017. Nhưng để thúc đẩy đổi mới sáng tạo cần một môi trường thử nghiệm an toàn (sandbox). Grab cũng đề xuất Nhà nước đầu tư vào hạ tầng dữ liệu quốc gia, coi dữ liệu là tài sản chung. Khi doanh nghiệp được khai thác dữ liệu minh bạch và an toàn, vừa đảm bảo bảo mật vừa tạo thuận lợi cho phát triển sản phẩm, kinh tế số mới có thể bứt phá.
“Đổi mới sáng tạo luôn gắn với rủi ro. Sandbox vừa bảo vệ người tiêu dùng, vừa tạo niềm tin để doanh nghiệp dám thử, dám làm,” ông Trọng nói.
Dẫn chứng về tiềm năng khai thác thị trường nội địa, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký kiêm Trưởng ban Pháp chế VCCI cho rằng, sự trỗi dậy của ngành điện ảnh Việt là minh chứng rõ ràng. Từ chỗ lép vế hoàn toàn trước các tác phẩm nước ngoài, thời gian gần đây phim Việt đã liên tục ghi dấu ấn với những sản phẩm chất lượng, chinh phục đông đảo khán giả trong nước.
Theo ông Tuấn, khi doanh nghiệp biết đầu tư đúng trọng tâm, am hiểu thị hiếu người tiêu dùng và chú trọng yếu tố sáng tạo, họ hoàn toàn có thể khai thác lợi thế dân số cùng đặc trưng văn hóa để tạo nên sức bật bền vững. Đây chính là cơ sở để nhiều ngành khác học hỏi, dần hình thành thương hiệu Việt đủ mạnh, vừa phục vụ thị trường trong nước, vừa hướng tới quốc tế.
Trong bối cảnh áp lực cạnh tranh ngày càng lớn, nhất là từ các chính sách thuế đối ứng, doanh nghiệp Việt vẫn giữ lợi thế ở sự am hiểu người tiêu dùng nội địa và văn hóa bản địa. Chính những yếu tố này sẽ giúp họ xây dựng chiến lược phù hợp về giá cả, thương hiệu và trải nghiệm.
“Điều quan trọng là doanh nghiệp Việt phải chủ động hơn trong việc đầu tư và khai thác sâu thị trường trong nước. Đây không chỉ là điểm tựa an toàn, mà còn là bàn đạp để doanh nghiệp từng bước khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế,” ông Tuấn nhấn mạnh.
TS. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam nhấn mạnh rằng, nếu những kiến nghị này được hiện thực hóa, Việt Nam không chỉ giữ vững các trụ cột công nghiệp truyền thống, mà còn mở ra các động lực tăng trưởng mới, bắt kịp xu thế toàn cầu. Đó cũng chính là con đường để nền kinh tế Việt Nam vừa ổn định, vừa bứt phá trong giai đoạn phát triển tiếp theo.
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/dn-viet-tim-dong-luc-moi-cong-nghiep-truyen-thong-thoat-ngo-cut-dot-pha-kinh-te-so/35866719