Ủy ban châu Âu (EC) vừa công bố văn kiện mới về ưu tiên ngoại giao khí hậu và năng lượng của Liên minh châu Âu (EU), trong đó đề xuất gói tài chính trị giá 200 tỷ Euro (tương đương 233 tỷ USD) trong giai đoạn 2028–2034 để hỗ trợ các quốc gia đang phát triển chịu tác động từ Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon – CBAM.
Khoản hỗ trợ được trích từ chương trình Global Europe, nhằm giúp các nước đầu tư vào công nghệ giảm phát thải và chuyển đổi năng lượng sạch, qua đó giảm chi phí phát sinh từ thuế carbon biên giới. Theo EC, mục tiêu của gói tài chính này là “làm mềm” lo ngại của các đối tác về quy định mới, đồng thời thúc đẩy hợp tác, cải cách pháp lý và chia sẻ công nghệ trong lĩnh vực môi trường.

CBAM ảnh hưởng thế nào tới ngành thép Việt?
Cao ủy Năng lượng EU Dan Jørgensen khẳng định khối sẽ không lùi bước trước sức ép thương mại, song sẵn sàng phối hợp đầu tư vào các ngành công nghiệp xanh có lợi cho cả đôi bên, như năng lượng tái tạo và hydro tại châu Phi – khu vực được EU xác định là nguồn cung năng lượng sạch chiến lược. Ông cũng cho biết EU sẽ hỗ trợ cả về tài chính lẫn kỹ thuật để giúp các nước đối tác thích ứng và phát triển mô hình kinh tế xanh.
Theo kế hoạch, CBAM – cơ chế thu thuế hàng nhập khẩu dựa trên lượng khí thải CO₂ trong quá trình sản xuất sẽ chính thức có hiệu lực từ tháng 1/2026, sau giai đoạn chuyển tiếp kéo dài đến hết năm 2025. Sáu nhóm hàng hóa đầu tiên bị áp dụng gồm: thép, nhôm, xi măng, phân bón, điện và hydrogen. Cơ chế này được xem là công cụ nhằm ngăn hiện tượng “rò rỉ carbon”, khi doanh nghiệp chuyển hoạt động sản xuất sang quốc gia có tiêu chuẩn môi trường thấp hơn, đồng thời bảo đảm tính cạnh tranh công bằng cho các nhà sản xuất trong khối EU.
Ngành thép Việt Nam được dự báo là đối tượng chịu ảnh hưởng lớn nhất khi CBAM có hiệu lực. Doanh nghiệp xuất khẩu sang EU sẽ phải mua chứng chỉ carbon tương ứng với lượng khí thải trong sản phẩm theo cơ chế hạn ngạch ETS, tiến tới nộp đủ 100% phí carbon vào năm 2034.

Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), EU hiện chiếm khoảng 27% lượng thép xuất khẩu của Việt Nam, tương đương hơn 3 triệu tấn trong tổng số 11,8 triệu tấn thép xuất khẩu năm 2023. Các chuyên gia ước tính, chi phí mua chứng chỉ carbon có thể chiếm 5–10% tổng chi phí sản xuất, thậm chí cao hơn với ngành xi măng. Nếu doanh nghiệp trong nước chậm thích ứng, nguy cơ mất thị phần không chỉ ở châu Âu mà còn tại các quốc gia khác đang xem xét áp dụng cơ chế tương tự.
Trước sức ép đó, Chính phủ Việt Nam đã sớm vào cuộc. Cuối tháng 8/2024, Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 6082/VPCP-NN, giao Bộ Công Thương làm đầu mối xây dựng đề án ứng phó CBAM, thúc đẩy đối thoại và đàm phán quốc tế, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp trong nước chuyển đổi công nghệ, giảm phát thải và tăng minh bạch dữ liệu khí nhà kính.
Doanh nghiệp trong nước chủ động đón đầu
Về phía doanh nghiệp, một số tập đoàn lớn trong ngành thép đã chủ động chuyển hướng “xanh hóa” sản xuất. Tập đoàn Hoa Sen đã hoàn thành kiểm kê khí nhà kính tại ba nhà máy tôn ở Phú Mỹ, Nghệ An và Bình Định, đồng thời thực hiện truy vết carbon cho gần 20 dòng sản phẩm – bước đầu đáp ứng các yêu cầu xuất khẩu sang thị trường EU.
Tương tự, Công ty CP Thép Hòa Phát Dung Quất đã được tổ chức BSI (Vương quốc Anh) xác nhận hoàn thành báo cáo kiểm kê khí nhà kính theo tiêu chuẩn ISO 14064-1:2018. Đây là một trong những điều kiện cần để doanh nghiệp thép Việt Nam đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu khi CBAM có hiệu lực.

Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát Trần Đình Long từng khẳng định, việc phát triển “thép xanh” là xu hướng không thể đảo ngược. Các dự án lớn như Dung Quất 2 đang được tập đoàn triển khai theo hướng áp dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh trong bối cảnh tiêu chuẩn môi trường toàn cầu ngày càng khắt khe.
Sự xuất hiện của CBAM đặt ra thách thức lớn cho ngành công nghiệp xuất khẩu Việt Nam, nhưng cũng mở ra cơ hội tái cấu trúc sản xuất theo hướng bền vững hơn. Với sự hỗ trợ tài chính từ EU cùng quyết tâm của Chính phủ và doanh nghiệp, quá trình “xanh hóa” ngành thép Việt Nam có thể trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng dài hạn, thay vì chỉ là một giải pháp ứng phó tạm thời.
Nguồn: https://kinhtechungkhoan.vn/huong-toi-lam-thep-xanh-hoa-phat-hoa-sen-huong-loi-nho-goi-ho-tro-khung-tu-eu-1411516.html
