Trong bối cảnh nhu cầu năng lượng của Việt Nam không ngừng tăng cao, câu hỏi ‘Làm thế nào để đảm bảo đủ điện cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân?’ trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Câu trả lời không chỉ nằm ở việc bổ sung nguồn cung, mà quan trọng hơn là hành động ngay hôm nay để xây dựng một hệ thống năng lượng bền vững, hiện đại và an toàn cho tương lai.
Thách thức từ nhu cầu tăng trưởng
Việt Nam đang đứng trước một thách thức kép: vừa phải duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa phải đảm bảo an ninh năng lượng trong bối cảnh nguồn cung toàn cầu biến động khó lường. Theo dự báo của Bộ Công Thương, nhu cầu điện năng của Việt Nam giai đoạn 2025-2030 có thể tăng bình quân 8-10% mỗi năm, tương đương mức tiêu thụ điện tăng thêm hàng chục tỷ kWh mỗi năm.
Năm 2024, tổng sản lượng điện thương phẩm đạt khoảng 309 tỷ kWh, tăng gần 7% so với năm 2023. Dự báo năm 2025, nhu cầu điện có thể tăng tới 9,4% theo kịch bản cơ sở và lên đến 13,2% trong kịch bản cao – tương đương sản lượng điện cần đạt khoảng 340-351 tỷ kWh.
Sự gia tăng nhanh chóng này đặt hệ thống điện quốc gia trước áp lực rất lớn về cả nguồn cung và lưới truyền tải. Trong khi đó, nhiều nguồn điện truyền thống đang dần cạn kiệt hoặc đối mặt với thách thức môi trường. Khai thác than trong nước giảm, nhập khẩu than và khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) ngày càng tốn kém; còn thủy điện đã gần đạt ngưỡng tiềm năng. Việt Nam đứng trước bài toán cân bằng giữa phát triển nhanh và phát triển bền vững.
Điện gió ngoài khơi được kỳ vọng là “trụ cột tương lai”, không chỉ vì tiềm năng hàng trăm GW mà còn bởi khả năng cung cấp điện ổn định, ít phụ thuộc thời tiết. Tuy nhiên, khung pháp lý và chính sách dành riêng cho điện gió ngoài khơi vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, từ khảo sát, cấp phép đến đấu thầu, gây khó khăn cho các nhà đầu tư.
Những năm gần đây, điện gió và điện mặt trời đã tạo ra sự bứt phá ấn tượng. Đến cuối năm 2024, tổng công suất năng lượng tái tạo (không tính thủy điện lớn) đã đạt hơn 23.000 MW, chiếm gần 27% tổng công suất lắp đặt toàn hệ thống. Tuy nhiên, sự phát triển quá nhanh cũng bộc lộ nhiều điểm nghẽn: thiếu hạ tầng truyền tải, cơ chế giá chưa ổn định, quy hoạch thiếu đồng bộ.
Điện gió ngoài khơi được kỳ vọng là “trụ cột tương lai”, không chỉ vì tiềm năng hàng trăm GW mà còn bởi khả năng cung cấp điện ổn định, ít phụ thuộc thời tiết. Tuy nhiên, khung pháp lý và chính sách dành riêng cho điện gió ngoài khơi vẫn còn thiếu và chưa đồng bộ, từ khảo sát, cấp phép đến đấu thầu, gây khó khăn cho các nhà đầu tư.
Nhìn từ thực tế đó, có thể thấy, nhu cầu điện ngày càng tăng cao trong khi đó việc triển khai các nguồn điện mới gặp nhiều khó khăn, nếu không có giải pháp ngay từ bây giờ nguy cơ thiếu điện có thể xảy ra trong tương lai.
Tiết kiệm năng lượng – “Nguồn điện vô hình”
Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có cường độ năng lượng (mức tiêu thụ năng lượng/GDP) cao hơn mức trung bình khu vực Đông Nam Á. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tiêu thụ nhiều năng lượng hơn để tạo ra một đơn vị GDP so với các nước khác. Nguyên nhân đến từ việc doanh nghiệp công nghiệp vẫn sử dụng công nghệ cũ, tiêu hao nhiều điện năng, trong khi ở khu vực dân cư, ý thức tiết kiệm năng lượng dù đã được nâng lên song vẫn còn hạn chế. Điều này càng gây áp lực cho hệ thống điện quốc gia.
Vì vậy, tiết kiệm năng lượng, đặc biệt là điện không chỉ giúp giảm chi phí, mà còn là “nguồn điện xanh, rẻ và bền vững nhất”. Đây là một trong những giải pháp quan trọng cấp bách để ứng phó với tình trạng thiếu điện, đảm bảo an ninh năng lượng dài hạn, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có cường độ năng lượng (mức tiêu thụ năng lượng/GDP) cao hơn mức trung bình khu vực Đông Nam Á/ Ảnh minh họa
Theo khảo sát của Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2019–2030, tiềm năng tiết kiệm năng lượng của nước ta còn rất lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp (chiếm trên 50% tổng tiêu thụ năng lượng quốc gia), có thể đạt 20-30%.
Giai đoạn 2016-2020, cả nước tiết kiệm khoảng 5,65% tổng năng lượng tiêu thụ. Từ năm 2020 đến nay, tỷ lệ tiết kiệm điện toàn quốc đạt trên 2% mỗi năm; tổn thất điện năng giảm từ 7,47% (2017) xuống 6,25% (2022). Năm 2024, sản lượng điện tiết kiệm đạt 6,506 tỷ kWh, tương đương 2,46% điện thương phẩm – cao hơn mức 5,29 tỷ kWh năm 2023. Đây là con số không nhỏ, và nếu được đẩy mạnh bằng các chương trình quốc gia, chính sách ưu đãi và ý thức cộng đồng, thì việc tiết kiệm năng lượng sẽ trở thành “nguồn điện xanh, rẻ và bền vững nhất”.
Theo các chuyên gia, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (SDNLTK&HQ) không chỉ là biện pháp ứng phó trước tình trạng thiếu điện hay giá năng lượng tăng cao, mà còn phải được coi như một thành tố cốt lõi trong chiến lược phát triển bền vững.
Để khuyến khích và nhân rộng SDNLTK&HQ, nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam cần hoàn thiện cơ chế tín dụng xanh và bảo lãnh đầu tư cho các dự án tiết kiệm năng lượng. Đây là chìa khóa để tháo gỡ rào cản tài chính, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị hiện đại, tiết kiệm điện năng.
Đồng thời, lồng ghép SDNLTK&HQ vào chiến lược phát triển ngành năng lượng, công nghiệp và đô thị là bước đi bắt buộc. Bởi tiết kiệm năng lượng không thể chỉ là phong trào ngắn hạn, mà phải trở thành trụ cột chính sách dài hạn, gắn liền với các cam kết Net Zero của Việt Nam đến năm 2050.
Hành động hôm nay – Cam kết cho ngày mai
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, truyền thông và giáo dục về tiết kiệm năng lượng nên bắt đầu từ trường học và cộng đồng. Khi trẻ em hình thành thói quen tắt đèn, tiết kiệm nước nóng, hoặc gia đình quen dần với việc dùng phương tiện xanh, thì hành vi bền vững sẽ được nhân rộng trong xã hội.
Không ít người nghĩ rằng tiết kiệm năng lượng là chuyện vĩ mô, gắn với những dự án tỷ USD. Nhưng thực tế, những hành động nhỏ hằng ngày của mỗi cá nhân mới chính là nền tảng. Một chiếc điều hòa đặt đúng chế độ có thể giảm 10% điện năng; một gia đình chuyển sang dùng đèn LED sẽ tiết kiệm hàng trăm kWh mỗi năm; một tòa nhà văn phòng tối ưu vận hành có thể giảm 20-30% chi phí điện. Đó chính là minh chứng rằng mỗi hành động nhỏ đều có tác động lớn đến cộng đồng và đất nước.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành điện hay các cơ quan quản lý nhà nước, mà là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, từ mỗi gia đình, mỗi doanh nghiệp đến các tổ chức, cộng đồng.
“Cần sự chung tay của toàn xã hội, đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan nhà nước – doanh nghiệp – người dân, để biến tiết kiệm năng lượng thành một phong trào bền vững chứ không chỉ là chiến dịch ngắn hạn”. Đó là lời khẳng định của bà Nguyễn Thị Lâm Giang – Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) khi trao đổi với PetroTimes.
Bà Nguyễn Thị Lâm Giang – Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) phát biểu tại diễn đàn Sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.
Bà Giang cho biết, năng lượng là huyết mạch của nền kinh tế. Việc sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng không chỉ là trách nhiệm, mà còn là lợi ích trực tiếp của doanh nghiệp và người dân. Sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả giúp doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Theo bà Nguyễn Thị Lâm Giang, từ năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2006-2015 với nhiều hoạt động, giải pháp được tổ chức triển khai trong các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế và trên phạm vi cả nước. Một trong những giải pháp trọng tâm trong giai đoạn đầu của Chương trình là tuyên truyền, truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng, doanh nghiệp và toàn xã hội về trách nhiệm và lợi ích của sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả và các giải pháp tiết kiệm năng lượng. Qua đó, ý thức tiết kiệm năng lượng của các doanh nghiệp Việt Nam đã được nâng cao rõ rệt so với trước đây.
Theo đánh giá của Bộ Công Thương, hơn 90% người dân và doanh nghiệp đã được tuyên truyền, phổ biến các biện pháp tiết kiệm năng lượng và đã hiểu được lợi ích của sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn không ít doanh nghiệp thực hiện các quy định theo cách hình thức, đối phó, chưa thực sự quan tâm đến hiệu quả của tiết kiệm năng lượng mang lại cho doanh nghiệp.
Bà Giang cũng cho rằng, trong bối cảnh thị trường năng lượng quốc tế diễn biến phức tạp, trước nguy cơ giá năng lượng tăng cao, nguy cơ thiếu hụt nguồn cung năng lượng có thể xảy ra, các doanh nghiệp, người dân cần phải nâng cao hơn nữa nhận thức về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, xác định được trách nhiệm, đồng thời cũng là lợi ích trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Quốc hội vừa thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả (tháng 6/2025), bổ sung các biện pháp bắt buộc, đồng thời đưa ra ưu đãi cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Đây được kỳ vọng tạo “cú hích” để lan tỏa mạnh mẽ phong trào tiết kiệm năng lượng.
Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, UBND cấp tỉnh sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện tốt công tác tuyên truyền, truyền thông, tăng cường công tác thanh kiểm tra về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả để nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, người dân và toàn xã hội nhằm đạt được mục tiêu về giảm cường độ năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính mà Chính phủ đề ra.
Bộ Công Thương đánh giá cao vai trò của các các cơ quan báo chí, truyền thông trong việc nâng cao nhận thức, thúc đẩy các doanh nghiệp, người dân thực hiện các hoạt động sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên phạm vi cả nước. Báo chí là phương tiện thông tin, là công cụ tuyên truyền rất hữu hiệu trong việc đưa các cơ chế, chính sách quản lý nhà nước liên quan đến việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả đến với người dân, doanh nghiệp, giúp cộng đồng nhận thức đúng đắn, hành động đồng thuận trong triển khai thực hiện, đảm bảo các phong trào phát triển bền vững, lâu dài.
“Để quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, trong đó sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả phải được xem là quốc sách quan trọng và trách nhiệm của toàn xã hội, tôi cho rằng cộng đồng doanh nghiệp, người dân cần chung tay, đồng lòng cùng song hành với cơ quan quản lý nhà nước trong việc tuân thủ các quy định, tích cực triển khai các giải pháp thúc đẩy sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trên phạm vi cả nước để hướng tới một nền kinh tế xanh, phát triển bền vững”, bà Giang cho biết thêm.
Nhìn từ thực tế, nếu không có hành động quyết liệt từ hôm nay, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ thiếu điện trong tương lai gần, kéo theo hệ lụy kinh tế và xã hội. Ngược lại, nếu biết tận dụng thời cơ, chủ động hành động ngay từ bây giờ – từ xây dựng cơ chế, huy động vốn, phát triển công nghệ cho đến thay đổi thói quen tiêu dùng – chúng ta hoàn toàn có thể đảm bảo một hệ thống năng lượng an toàn, bền vững và đủ cho ngày mai.
Năng lượng là huyết mạch của nền kinh tế. Đảm bảo an ninh năng lượng không chỉ là trách nhiệm, mà còn là cam kết với thế hệ tương lai. Chính vì vậy, mỗi hành động hôm nay, dù là tiết kiệm một bóng đèn, cải tiến một dây chuyền sản xuất, hay ban hành một chính sách đều góp phần tạo nên nền tảng vững chắc để Việt Nam có đủ năng lượng cho ngày mai.
“Theo Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN), giai đoạn 2025-2030, EVN đặt mục tiêu giảm tỉ lệ điện dùng cho truyền tải và phân phối của toàn hệ thống lưới điện xuống dưới 6%; giảm công suất phụ tải đỉnh thông qua chương trình quản lý phía nhu cầu điện (DSM/DR) tối thiểu 1.500MW. Đồng thời, EVN sẽ phối hợp chặt chẽ với các cơ quan truyền thông, báo chí, tổ chức chính trị – xã hội từ Trung ương tới địa phương để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tư vấn khách hàng sử dụng điện an toàn, tiết kiệm và hiệu quả
Mạnh Tưởng
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/bai-5-hanh-dong-hom-nay—dam-bao-nang-luong-ngay-mai/35101154