Các quốc gia đi trước đã làm chủ đường sắt cao tốc như thế nào? Có nhiều nước từng ở điểm xuất phát tương đương Việt Nam

Nhật Bản – Kiên trì và hệ sinh thái nội địa hóa

Shinkansen – biểu tượng kinh điển của đường sắt cao tốc thế giới không ra đời sau một đêm. Nhật Bản khởi công tuyến đầu tiên vào năm 1959, khai trương năm 1964 giữa muôn vàn hoài nghi. Nhưng chính nhờ cách làm “nhà nước mở đường – tư nhân song hành”, Nhật Bản đã xây dựng một hệ sinh thái hoàn chỉnh với các tập đoàn như Hitachi, Kawasaki, Mitsubishi Heavy Industries… không chỉ tham gia thi công mà còn nắm giữ công nghệ lõi.

Điều đáng học nhất không phải tốc độ mà là cách Nhật Bản nội địa hóa từng phần nhỏ, từ ray, tà vẹt, bánh xe, điện khí hóa… đến khi làm chủ toàn bộ hệ thống. Họ thậm chí xây dựng cả viện nghiên cứu chỉ để thử nghiệm rung lắc của tàu ở tốc độ cao. Từ những mảng nhỏ, hệ sinh thái dần mở rộng. Khi đã vững ở sân nhà, họ mới bắt đầu xuất khẩu công nghệ – từ Đài Loan, Ấn Độ cho tới Mỹ.

Nhật Bản đã xây dựng một hệ sinh thái hoàn chỉnh liên quan đến đường sắt cao tốc
Nhật Bản đã xây dựng một hệ sinh thái hoàn chỉnh liên quan đến đường sắt cao tốc

Hàn Quốc – Chấp nhận học từ bên ngoài để tự chủ dần

Ít ai biết rằng hệ thống KTX của Hàn Quốc (khai trương năm 2004) ban đầu được xây dựng dựa trên chuyển giao công nghệ từ Alstom (Pháp). Trong giai đoạn đầu, hơn 60% thiết bị được nhập khẩu. Nhưng thay vì lệ thuộc, chính phủ Hàn Quốc đã lên kế hoạch nội địa hóa từng bước với mục tiêu đạt tỷ lệ 87% trong vòng 10 năm.

Họ thành lập các viện đào tạo kỹ sư vận hành, ép buộc nhà thầu nước ngoài chuyển giao công nghệ và đặc biệt là tạo cơ hội cho doanh nghiệp nội. Từ Doosan, Hyundai Rotem, đến các startup phần mềm vận hành được tham gia chuỗi cung ứng. Kết quả: Hàn Quốc không chỉ làm chủ KTX mà còn phát triển các mẫu tàu riêng như KTX-Sancheon và gần đây là SRT – do chính doanh nghiệp nội thiết kế và vận hành.

Trung Quốc – Dám đầu tư dài hạn, dù ban đầu là “đi vay công nghệ”

Trung Quốc là ví dụ điển hình của chiến lược “đồng hành – học hỏi – vượt lên”. Những năm 2004–2008, họ ký hàng loạt thỏa thuận với Siemens, Bombardier, Alstom, Kawasaki… để xây dựng mạng lưới CRH. Nhưng thay vì phụ thuộc, họ rót ngân sách khổng lồ để sao chép, cải tiến và sau cùng tạo ra Fuxing Hao – mẫu tàu nhanh nhất thế giới vận hành thương mại (350km/h).

Quan trọng hơn, Trung Quốc đã đầu tư vào 3 mũi nhọn đồng thời: 1) Đào tạo nhân lực từ đại học tới kỹ sư thực địa, 2) Hỗ trợ doanh nghiệp nội địa như CRRC, CREC, CSR phát triển năng lực sản xuất, 3) Xây dựng khung pháp lý riêng giúp kiểm định, đánh giá, và phát triển độc lập công nghệ. Từ chỗ là người học, Trung Quốc đã xuất khẩu công nghệ đường sắt cao tốc sang châu Phi, Đông Nam Á, thậm chí cạnh tranh cả với Nhật và Pháp ở các gói thầu quốc tế.

Từ ba quốc gia nói trên, có thể rút ra 3 bài học cốt lõi:

  1. Phải có chiến lược nội địa hóa từng phần, không phụ thuộc mãi. Nếu cứ để nhà thầu ngoại mang công nghệ đến, doanh nghiệp Việt sẽ chỉ mãi “trải nhựa, đổ bê tông” mà không tiến được lên phần có giá trị cao.
  2. Tư nhân không thể làm một mình – cần cái bắt tay chiến lược với Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò dẫn đường, tạo điều kiện về luật pháp, vốn đầu tư, đào tạo – trong khi doanh nghiệp dám nhận thách thức và đầu tư dài hạn.
  3. Cần tư duy “từng bước làm chủ” thay vì “toàn bộ hoặc không gì”. Học từ Hàn Quốc – ban đầu chỉ cần làm tốt một phần, sau đó mới mở rộng năng lực là cách tiếp cận thực tế, đặc biệt với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.

Nguồn: https://kinhtechungkhoan.vn/cac-quoc-gia-di-truoc-da-lam-chu-duong-sat-cao-toc-nhu-the-nao-co-nhieu-nuoc-tung-o-diem-xuat-phat-tuong-duong-viet-nam-1384773.html

Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *