Doanh nghiệp chăn nuôi nội có vượt qua được ‘vòng vây’ khó khăn?

Nhìn từ câu chuyện nợ thuế hơn 51 tỷ đồng của công ty Ba Huân (từng chiếm 30% thị phần sản xuất trứng gia cầm tại Việt Nam) cũng để thấy “vòng vây” khó khăn với các doanh nghiệp chăn nuôi khối nội. Điều này hiển hiện từ việc dư cung, giá bán giảm, lợi nhuận sa sút, giảm sức cạnh tranh, diễn biến bất lợi và cả bất cập trong khâu chính sách thuế.

Ngay sau thông tin CTCP Ba Huân trong trung tuần tháng 11/2025 bị cưỡng chế ngừng thủ tục hải quan vì nợ thuế hơn 51 tỷ đồng, điều làm cho dư luận ngỡ ngàng khi bà Phạm Thị Huân – người có biệt danh là “nữ hoàng trứng”, đang giữ vai trò chủ tịch Hội đồng quản trị danh dự của công ty, xác nhận công ty thời gian qua làm ăn thua lỗ dẫn đến nợ thuế. Không chỉ vậy, bà Huân cũng không còn tham gia điều hành vì đã bán hết cổ phần công ty từ 4 năm trước. 

Nhiều khó khăn vẫn đang hiện hữu

Trên thực tế, không riêng gì Ba Huân, các doanh nghiệp (DN) nội địa trong mảng trứng gia cầm đã gặp khó khăn trong những thời điểm giá trứng giảm sâu kéo dài. Giá đầu vào cao, rủi ro dịch bệnh và sự biến động khó lường của thị trường khiến cho nhiều DN đang bước vào giai đoạn khủng hoảng: Thừa sản lượng, giá giảm sâu, thị trường bão hòa, niềm tin nhà đầu tư suy giảm.

Thị trường trứng có những thời điểm dư cung, giá giảm sâu kéo dài đã gây nhiều khó khăn nhất định cho các DN nội địa trong ngành trứng gia cầm.

Đó là chưa kể áp lực cạnh tranh gay gắt từ khối ngoại. Như gần đây, “vượt mặt” những tên tuổi lớn của khối nội như Ba Huân, Tafa Việt Nam, Vĩnh Thành Đạt, Hòa Phát và dẫn đầu ngành trứng trong nước lại là một DN có 100% vốn từ Malaysia. 

Với mảng trứng, nguồn dữ liệu mới đây từ AgroMonitor & Viettraders, Outlook 2025–2026, đã chỉ rõ tình trạng dư cung kéo dài và cạnh tranh khu vực. Trái ngược với mảng thịt, sản lượng trứng năm 2025 được cho là giảm 1,6%, do nguồn cung trong nước dư thừa và biên giới Thái Lan – Campuchia mở ra cơ hội nhập khẩu trứng giá rẻ. Tình trạng dư cung này khiến giá trứng nội địa chịu sức ép giảm trong phần lớn năm 2025.

Giới phân tích cho rằng đến năm 2026, sản lượng trứng được dự kiến chỉ nhích nhẹ 0,6%, chủ yếu đến từ các trại công nghiệp lớn. Sự phục hồi của mảng trứng gia cầm ở Việt Nam sẽ phụ thuộc vào việc điều chỉnh cơ cấu đàn đẻ và khả năng mở rộng xuất khẩu (XK) sang thị trường lân cận.

Chính vì vậy, để vượt qua khó khăn, các DN khối nội ở mảng trứng gia cầm rất cần được hỗ trợ bằng chính sách ổn định đầu ra, khuyến khích tiêu thụ trong nước, phát triển chế biến và thúc đẩy XK. Hiệp hội Gia cầm Việt Nam mới đây đã kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các địa phương thực hiện nhiều giải pháp trọng tâm, để vừa bảo đảm nguồn cung, vừa hỗ trợ sản xuất bền vững.

Không chỉ với mảng trứng, “vòng vây” khó khăn vẫn đang hiện hữu với không ít DN khối nội trong ngành chăn nuôi giữa giai đoạn có nhiều biến động và rủi ro. Cục Chăn nuôi và Thú y (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhận định ngành chăn nuôi trong thời gian tới vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn như: Giá nguyên liệu đầu vào biến động, rủi ro dịch bệnh, cạnh tranh từ hàng nhập khẩu giá rẻ và biến đổi khí hậu.

Ông Phan Quang Minh, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi và Thú y, cho biết, nguy cơ dịch bệnh, đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi, vẫn tiềm ẩn và có thể gây ảnh hưởng lớn đến nguồn cung nếu không có các biện pháp kiểm soát kịp thời.

Còn đứng ở góc độ DN chăn nuôi khối nội, khó khăn lớn đang nằm ở vấn đề giá bán, thức ăn chăn nuôi (TĂCN) và áp lực chi phí. Như trong báo cáo cập nhật CTCP Nông nghiệp BAF Việt Nam (BAF) được Công ty chứng khoán KIS Việt Nam đưa ra trong tháng 11/2025 cho thấy BAF gặp áp lực về giá bán trong 3 quý đầu của năm 2025. Thực tế là sản lượng bán hàng của DN này tăng trưởng nhưng giá bán giảm.

Cụ thể, trong 3 quý đầu của năm 2025, BAF ghi nhận doanh thu từ mảng chăn nuôi đạt 1.136 tỷ đồng, giảm 18% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, sản lượng bán đạt 218.000 lợn thịt, tăng đến 35%. 

Mối lo từ những diễn biến bất lợi

Trên thực tế, việc sụt giảm doanh thu mảng chăn nuôi của BAF là do giá bán bình quân ở mức tương đối thấp, chỉ ở mức khoảng 49.600 đồng/kg, giảm 36% so với những quý trước đó. Đáng chú ý, giá bán của DN này trong 3 quý đầu của năm 2025 thấp hơn khoảng 19% so với trung bình thị trường.

Không những thế, một phần sụt giảm doanh thu của BAF còn chủ yếu do mảng TĂCN không còn ghi nhận doanh thu và lợi nhuận kể từ đầu năm 2025. Trong khi cùng kỳ năm ngoái (3 quý đầu của năm 2024), mảng này đóng góp 464 tỷ đồng doanh thu.

Ngoài ra, trong 3 quý đầu của năm 2025 chi phí bán hàng của DN này tăng mạnh lên 107 tỷ đồng, tăng 58% so với cùng kỳ năm trước và tăng tới 709% so với những quý trước. Trong đó, tất cả các khoản mục trong chi phí bán hàng đều tăng mạnh. Rồi chi phí lãi vay cũng tăng lên 68 tỷ đồng (tăng 23% cùng kỳ năm trước), do dư nợ vay tăng tài trợ hoạt động mở rộng trang trại.

Trước những khó khăn như vậy khiến cho lợi nhuận sau thuế của BAF trong 3 quý đầu của năm 2025 chỉ đạt 22 tỷ đồng, giảm 62,6% so với cùng kỳ năm trước và giảm 88,5% so với những quý trước đó.

Chưa hết, theo Bộ phận phân tích của Công ty chứng khoán KIS Việt Nam, quý 4/2025 được dự báo tiếp tục khó khăn và lợi nhuận có thể ghi nhận xấu hơn so với 3 quý đầu của năm 2025 khi giá bán vẫn đang diễn biến bất lợi trong các tháng cuối của năm nay. 

Ngoài những khó khăn cụ thể như trên, vướng mắc về thuế Giá tăng gia tăng (GTGT) cũng là một trở ngại cho các DN chăn nuôi của khối nội. Như trong phản ánh gần đây từ Hội Chăn nuôi Việt Nam và Hiệp hội TĂCN Việt Nam về Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 đang có những quy định mâu thuẫn, gây nhiều khó khăn cho ngành chăn nuôi và TĂCN. Mặc dù đã có những kiến nghị về các vấn đề bất cập nhưng đến nay chưa được tháo gỡ.

Theo Hội Chăn nuôi Việt Nam, sản phẩm chăn nuôi trong nước đang chịu áp lực rất lớn của sản phẩm nhập khẩu cùng loại. Đó là chưa kể phải nhập khẩu tới 70% nguyên liệu TĂCN cho nhu cầu tổng thể và trên 90% cho nhu cầu chế biến TĂCN chuyên nghiệp.

Còn theo Hiệp hội TĂCN Việt Nam, qua phản ánh của nhiều DN sản xuất TĂCN về ​​Luật Thuế giá trị gia tăng số 48/2024/QH15 với cách hiểu và áp dụng quy định về thuế Giá trị gia tăng đối với một số nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô, lúa mì, khô dầu, cám, đậu đỗ…chưa thống nhất giữa các cơ quan thuế địa phương. Cụ thể, một số cơ quan thuế áp dụng các loại này vào đối tượng không chịu thuế (theo khoản 1, khoản 3, Điều 5), trong khi có cơ quan lại áp dụng mức thuế 5% (điểm D khoản 2 và khoản 5 Điều 9 của luật).

Điều đáng nói hiện nay nguyên liệu nông sản như ngô, lúa mì, đậu chiếm đến 70% tổng thành phần TĂCN. Việc áp sai mức thuế đẩy chi phí sản xuất TĂCN lên cao, làm tăng giá thành sản phẩm chăn nuôi nội địa, giảm khả năng cạnh tranh với sản phẩm XK.

Thế Vinh-Link gốc

Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/doanh-nghiep-chan-nuoi-noi-co-vuot-qua-duoc-vong-vay-kho-khan/36733768

////////////khacnhaudoannay
Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *