Thị phần xuất khẩu sang Hoa Kỳ đang dần được bù đắp bởi thị trường Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Trung Quốc… đồng thời doanh nghiệp cũng chủ động đa dạng hóa nguồn nguyên liệu.
Trong bối cảnh Hoa Kỳ điều chỉnh thuế nhập khẩu với nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, nhiều ngành xuất khẩu chủ lực như dệt may đang đứng trước những khó khăn chưa từng có, đồng thời phải nắm bắt những cơ hội để đa dạng thị trường và nguồn nguyên liệu.
Nhiều doanh nghiệp dệt may chạy đua để hoàn thành đơn hoàn sớm.
Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam nhận định: “Các doanh nghiệp cần hoàn thành ít nhất 2/3 kế hoạch lợi nhuận năm trong thời gian này để dự phòng cho biến động nửa cuối năm”.
Theo ông Trường, cơ hội đơn hàng của ngành dệt may đang tập trung vào 6 tháng đầu năm, có thể kéo dài tới quý III/2025. Đây được xem là giai đoạn 90 ngày “vàng” trước hạn chót áp thuế đối ứng từ Hoa Kỳ – dự kiến kết thúc vào ngày 10/7.
Nhiều biện pháp cũng được linh hoạt ứng phó, tại công ty May Đức Giang, Tổng Giám đốc Phạm Tiến Lâm cho biết, công ty đang tận dụng triệt để thời gian hoãn thuế để giao hàng. Chi phí thuế quan được chia sẻ linh hoạt theo hình thức FOB, CM và quy mô đơn hàng. Ngoài Hoa Kỳ, công ty cũng đẩy mạnh xuất khẩu sang Australia, Nhật Bản, Trung Quốc; đơn hàng đã kín đến tháng 9.
Đa dạng hoá cũng là hướng đi được nhiều doanh nghiệp quan tâm. Tại Công ty May 10, thị phần Hoa Kỳ cũng đang dần được bù đắp bởi thị trường Nhật Bản, Nga, Hàn Quốc và Trung Quốc, đồng thời chủ động đa dạng hóa nguồn nguyên liệu từ Ấn Độ, Đài Loan và hệ thống Vinatex.
Phân tích kỹ hơn vào cơ cấu các thị trường xuất khẩu, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, năm 2024 ngành dệt may Việt Nam đã xuất khẩu gần 44 tỷ USD, trong đó xuất sang Hoa Kỳ 16,6 tỷ USD, chiếm 38,2%; CPTPP trên 7 tỷ USD chiếm 16,25%; Nhật Bản chiếm 10,5%; Canada chiếm 2,8%; Trung Quốc 8,3%; Hàn Quốc 8,5%; Anh 1,8%; Nga chiếm 1,75%.
Ngoài Hoa Kỳ, nhiều doanh nghiệp cũng đẩy mạnh xuất khẩu sang Australia, Nhật Bản, Trung Quốc,…
Trong khi gặp khó ở thị trường Hoa Kỳ, thì các thị trường khác như Trung Đông dù được đánh giá khá tiềm năng, nhưng dệt may Việt Nam chưa khai thác được nhiều, mới chỉ chưa đến 1%; châu Phi mới khai thác được 0,34%.
Cùng với đó, ngành dệt may cũng phải đối mặt với môi trường biến động như dịch bệnh, xung đột địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ… và đặc biệt là sự thay đổi chiến lược dệt may từ “thời trang nhanh” sang “thời trang bền vững”.
Đáng lưu ý, các chuỗi cung ứng dệt may cũng phải đáp ứng các quy định mới, phải được truy soát về tiêu chuẩn lao động và môi trường như: Đạo luật chống lao động cưỡng bức người Duy Ngô Nhĩ của Hoa Kỳ, Đạo luật tra soát chuỗi cung ứng của Đức, Chỉ thị của EU về trách nhiệm của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, lộ trình giảm phát thải khí nhà kính của nhãn hàng… Chương trình cam kết giảm phát thải khí nhà kính của các nhãn hàng.
Ngoài ra là những thách thức từ yêu cầu trong nước. Áp lực thực hiện lộ trình cam kết của Việt Nam tại COP 26 về Net Zero vào năm 2050; nhu cầu nhân lực và vốn rất lớn cho sản xuất nguyên phụ liệu, chuyển đổi kép, kinh tế tuần hoàn; yêu cầu tự chủ nguồn nguyên phụ liệu để tận dụng ưu đãi thuế của các FTAs…
Trước những khó khăn của doanh nghiệp dệt may, ông Cẩm kiến nghị Bộ Công Thương đàm phán để không tăng thuế hoặc mức thuế doanh nghiệp có thể chấp nhận, giữ được thị trường Hoa Kỳ. Thúc đẩy nhanh đàm phán FTA ASEAN – Canada nhằm giảm công đoạn xuất xứ cho dệt may, đàm phán nới ngưỡng với EAEU.
Hỗ trợ triển khai các khu công nghiệp thu hút dệt, nhuộm theo Quyết định số 1643/QĐ-TTg về Chiến lược dệt may và da giày; đặc biệt triển khai các khu công nghiệp dệt may lớn thu hút đầu tư vào sản xuất vải, nguyên phụ liệu để tăng tỷ lệ nội địa hóa.
Doanh nghiệp cũng mong muốn được hỗ trợ thông tin từ các thị trường xuất khẩu lớn như Hoa Kỳ, hay các các thị trường có FTA với Việt Nam như Mexico, Peru, Chile…hay các thị trường khác như Braxin, Ấn Độ…
Đồng thời, doanh nghiệp cho biết đang thiếu thông tin về những lợi thế của các thị trường cạnh tranh như Banglades; Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia… về hỗ trợ của nhà nước, chính sách thuế, hải quan, thu nhập người lao động.
“Doanh nghiệp có nhu cầu đa dạng nguồn nhập khẩu nguyên vật liệu, nên rất cần thông tin về khả năng cung cấp, giá cả, chi phí logistics, tính ổn định chất lượng và phong phú về mặt hàng… của những thị trường có khả năng cung ứng”, ông Cẩm kiến nghị.
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/doanh-nghiep-det-may-chay-dua-mo-rong-thi-truong/32766363