Cách thu phí và công thức tính phí nước thải như hiện nay ngày càng bộc lộ bất cập: phức tạp, thiếu minh bạch, khiến doanh nghiệp nhỏ lúng túng trong kê khai, nộp phí theo kiểu ‘phỏng đoán’, trong khi hiệu quả giám sát, sử dụng nguồn thu cho môi trường vẫn còn là khoảng trống lớn.
Công thức cào bằng, doanh nghiệp lãnh đủ
Nghị định 53/2020/NĐ-CP là căn cứ pháp lý để thu phí bảo vệ môi trường (BVMT) đối với nước thải. Mục tiêu thì hợp lý. Nhưng sau gần 5 năm thực thi, chính sách này bộc lộ nhiều điểm nghẽn: bất cập pháp lý, lạc hậu kỹ thuật và đặc biệt – gây khó cho doanh nghiệp nhỏ.
Nhà máy tái chế nước thải tại khu công nghiệp Deep C. Ảnh chỉ có tính minh họa cho bài viết, không liên quan nội dung của bài viết. Ảnh: TL
Cách phân loại nước thải công nghiệp theo 14 nhóm ngành nghề hiện không còn phù hợp. Hệ thống quy chuẩn quốc gia về môi trường đã thay đổi (QCVN 14 và 40:2025/BTNMT), khiến nhiều cơ sở không rõ mình thuộc diện nào. Nước thải sinh hoạt và nước thải dịch vụ kinh doanh cũng giao thoa, dễ dẫn đến kê khai nhầm.
Nghị định 53/2020/NĐ-CP, hiệu lực từ 1-7-2020, quy định phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Nước thải sinh hoạt tính theo % giá bán nước sạch; nước thải công nghiệp tính theo lưu lượng và chất ô nhiễm, nhằm áp dụng nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền” và tạo nguồn thu ngân sách để hỗ trợ công tác bảo vệ môi trường.
Điểm rối nhất nằm ở công thức tính phí với cơ sở xả thải từ 20 m³/ngày trở lên. Doanh nghiệp phải tính theo lưu lượng và hàm lượng chất ô nhiễm như COD, TSS, thủy ngân, chì, asen, cadimi… Nhưng Luật BVMT chỉ yêu cầu quan trắc với cơ sở xả thải từ 200 m³/ngày. Hệ quả: phần lớn doanh nghiệp nhỏ, xả thải dưới 200 mét khối không có số liệu quan trắc, lại vẫn phải kê khai theo công thức này.
Một giám đốc doanh nghiệp cơ khí ở Long An than: “Xả vài chục khối nước/ngày, chủ yếu nước tẩy rửa kim loại, nhưng không biết cách nào tính phí đúng. Cơ quan thu phí chỉ đưa công thức, yêu cầu doanh nghiệp tự tra đơn giá từng chất độc hại mà không có hướng dẫn”.
Không hệ thống quan trắc, không cán bộ môi trường, không bảng tra đơn giá – nhiều doanh nghiệp nhỏ buộc nộp theo kiểu “phỏng đoán”, hoặc chấp nhận sai để rồi bị phạt.
Đáng chú ý, hơn 97% doanh nghiệp Việt Nam là nhỏ và vừa. Thế nhưng, cơ chế tính phí lại áp dụng một công thức chung, không phân biệt quy mô – như thể bắt mọi loại hình mặc “đồng phục”. Kết quả: doanh nghiệp nhỏ lãnh đủ, loay hoay từ tính toán đến đối chiếu, trong khi công cụ không đủ để làm đúng.
Người viết tham gia nhóm chia sẻ kiến thức về môi trường có hơn 1.000 doanh nhân, nhân viên kỹ thuật nước thải và chuyên gia thì nội dung của nhóm đa phần í ới hỏi nhau làm sao kê khai cho đúng, để khỏi bị phạt và lắm người gọi là “ma trận” thu phí nước thải.
Đừng để phí thành thuế
Theo Bộ Tài chính, tổng thu phí nước thải tăng đều các năm qua, 2.200 tỉ đồng năm 2022, 2.860 tỉ đồng năm 2023 và 3.338 tỉ đồng năm 2024. Con số này không nhỏ nhưng tiền đó được sử dụng thế nào – thì hầu như chưa minh bạch, bởi mục tiêu của thu phí nước thải là tạo nguồn thu ngân sách để hỗ trợ công tác bảo vệ môi trường các địa phương.
Phần thu từ nước thải sinh hoạt được phân bổ: 10% cho đơn vị cấp nước, 25% cho chính quyền phường, còn lại nộp ngân sách. Phí nước thải công nghiệp nộp toàn bộ ngân sách, trừ vài trường hợp khoán chi. Tuy vậy, nguồn phí này hầu như không quay lại hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ xử lý hoặc nếu có thì doanh nghiệp hay cộng đồng không biết, không có thông tin.
Đối với nước thải công nghiệp, tổ chức thu phí phải nộp toàn bộ số tiền phí bảo vệ môi trường thu được vào ngân sách nhà nước. Ảnh: Tạp chí Tài chính
Quy định hiện nay cũng không quy định cơ chế giám sát hiệu quả sử dụng nguồn thu. Doanh nghiệp nộp tiền nhưng không biết đồng phí ấy có giúp cải thiện môi trường quanh họ hay không hay chỉ là 1 khoản thu nộp mang tính bắt buộc, như 1 khoản thuế.
Người gây ô nhiễm phải trả tiền là đúng, nhưng…
Một bất cập lớn khác: quy trình kê khai và nộp phí vẫn hoàn toàn thủ công. Doanh nghiệp phải in giấy, ký, đóng dấu, nộp trực tiếp hoặc gửi công văn. Không có phần mềm kê khai, không cổng điện tử, không cảnh báo lỗi – rủi ro sai sót rất cao.
Thủ tướng đã ban hành Quyết định 206/QĐ-TTg từ năm 2024, yêu cầu số hóa toàn trình dịch vụ công về thu phí môi trường. Nhưng đến nay, kê khai phí nước thải vẫn… nằm trên giấy. Doanh nghiệp lớn có thể cử nhân sự lo thủ tục; doanh nghiệp nhỏ lại phải tự xoay sở với chuỗi thao tác phức tạp, dễ “gãy” giữa chừng.
Phía cơ quan thu phí cũng không khá hơn. Nhiều địa phương không đủ năng lực thẩm định bảng kê khai của doanh nghiệp. Không công cụ kiểm tra chéo, họ chủ yếu “thu theo tờ khai” và ngầm hiểu rằng… nộp là xong, có tự giác nộp là tốt rồi.
Doanh nghiệp kê khai sai, lỗi thuộc doanh nghiệp. Doanh nghiệp thắc mắc, không biết hỏi ai. Vòng luẩn quẩn này đang làm chính sách thu phí mất dần tính công bằng và hiệu quả.
Chính sách “người gây ô nhiễm phải trả tiền” là chính đáng. Nhưng nếu triển khai bằng công thức phức tạp, thiếu linh hoạt, không hỗ trợ thực tế cho doanh nghiệp nhỏ thì ít nhiều phản tác dụng.
Một cơ chế hợp lý nên đảm bảo ba yếu tố: đơn giản để kê khai – minh bạch để giám sát – linh hoạt để phân loại đúng đối tượng. Doanh nghiệp không ngại đóng phí, nhưng cần biết cách tính đúng, và quan trọng hơn, thấy rõ khoản phí ấy mang lại lợi ích gì cho môi trường nơi họ đang hoạt động.
Nhất Sơn
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/doanh-nghiep-lac-trong-me-tran-cong-thuc-thu-phi-nuoc-thai/34854650