Doanh nghiệp sản xuất Việt Nam mạnh, nhưng cần ‘bà đỡ’ chính sách để lớn

Việc hình thành các liên minh doanh nghiệp sản xuất công nghiệp – phụ trợ, cùng sự ‘trợ lực’ chính sách từ Nhà nước sẽ giúp Việt Nam gia tăng tỉ lệ nội địa hóa với các sản phẩm công nghiệp, qua gia tăng giá trị hàng hóa trong thời gian tới.

Khát vọng hùng cường của người Việt

Trung tâm triển lãm quốc gia (VEC) chính thức vận hành từ cuối tháng 8-2025, với công trình mang tính chất điểm nhấn là nhà triển lãm Kim Quy, có mái vòm thép nặng 24.000 tấn, đường kính 360m – tương đương diện tích hơn 10 ha. Đây là một trong những kết cấu thép phức tạp nhất từng thi công tại Việt Nam, với sự hợp tác giữa ba đơn vị là ATAD, QH Plus, Đại Dũng.

Xuyên suốt quá trình thực hiện, Vingroup giữ vai trò chủ đầu tư, kiêm nhà điều phối mọi hạng mục và giám sát từng bước. ATAD là đơn vị được mời đầu tiên, chịu trách nhiệm thi công hai sảnh, với khoảng 20% tổng khối lượng thép. QH Plus giữ vai trò “chia lửa”, khi chịu trách nhiệm thi công ba sảnh, với khối lượng thép tương đương ATAD.

Còn Đại Dũng, với kinh nghiệm cung cấp kết cấu cho hai sân vận động – nơi diễn ra các trận đấu tại World Cup 2022, phụ trách các hạng mục còn lại của mái vòm. Trong giai đoạn cao điểm thi công, đơn vị huy động tới 3.000 kỹ sư và công nhân, cùng hệ cẩu 350–500 tấn hoạt động liên tục.

Kết quả, toàn bộ mái vòm đã được lắp dựng và hoàn thiện chỉ trong 10 tháng – nhanh hơn ba lần thông lệ quốc tế khi so sánh với các công trình cùng quy mô, góp phần quan trọng giúp trung tâm triển lãm vận hành đúng dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh.

Trung tâm triển lãm quốc gia (VEC), công trình thể hiện tầm nhìn và khát vọng vươn mình của doanh nghiệp Việt Nam. Ảnh minh họa: H.T

Câu chuyện là minh chứng cho năng lực sản xuất, tổ chức, thi công và tầm nhìn doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Nhưng điều đáng buồn là ngoài một số ít doanh nghiệp, đóng góp thực tế của khu vực kinh tế tư nhân cho lĩnh vực công nghiệp còn thấp.

Theo báo cáo VPE500 (2021) và Cục thống kê, chỉ khoảng 6% doanh nghiệp lớn và vừa đủ tiêu chuẩn là nhà cung cấp (vendor) cấp 1-3 của các đối tác nước ngoài. Trong đó, khoảng 5.000 doanh nghiệp thực sự tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Còn lại là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, vốn không đủ tiêu chuẩn tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu hoặc chỉ tham gia vào công đoạn có hàm lượng giá trị gia tăng thấp.

Đáng lưu ý, tỷ lệ nhập khẩu đầu vào/xuất khẩu chiếm tới 70%, cao hơn nhiều mức trung bình thế giới là 17%; tỷ lệ nội địa hóa chỉ khoảng 20%, thấp hơn so với mức trung bình thế giới 27%; tỷ lệ nội địa hóa của một số sản phẩm công nghiệp xuất khẩu chủ chốt như điện tử, ô tô chỉ ở mức 20% hay 9%…

Về đổi mới công nghệ, trình độ công nghệ sản xuất của doanh nghiệp tư nhân còn thấp, với công nghệ tiên tiến chiếm 10%, công nghệ trung bình chiếm 38%, còn lại là công nghệ lạc hậu và rất lạc hậu.

Vấn đề này tiếp tục được nhắc tới tại cuộc họp của Ủy ban III, thuộc mô hình Toàn cảnh kinh tế tư nhân (ViPEL) sáng 1-10. Ông Lê Phụng Thắng, Chủ tịch HĐQT Công ty Citicom – đơn vị chuyên cung cấp thép cho nhóm ngành cơ khí chế tạo, cho biết các đơn vị phát triển mạnh nhất trong nhóm ngành chế biến – chế tạo, cơ khí, công nghiệp nặng thuộc khu vực kinh tế Nhà nước và FDI, trong khi khu vực tư nhân chỉ có một số đơn vị như Thaco, Hòa Phát, VinFast…

Còn ông Chu Hoàng Tùng, Chủ tịch Công ty đầu tư xây dựng và thương mại Ngãi Cầu, cho biết thực trạng kiểm soát tiêu chuẩn nội địa hóa không tốt khiến doanh nghiệp Việt Nam thua ngay trên “sân nhà” trước doanh nghiệp Trung Quốc trong quá trình liên doanh – hợp tác. Do đó, tăng và kiểm soát tỷ lệ nội địa hóa, phát triển liên minh các nhà sản xuất – công nghiệp Việt Nam là yêu cầu bắt buộc trong thời gian tới.

Bổ sung, ông Hoàng Đức Vượng, Chủ tịch Vietcycle, thông tin doanh nghiệp liên doanh tại Việt Nam thường hình thành giữa doanh nghiệp trong nước với nhà đầu tư nước ngoài, nhằm triển khai các dự án cụ thể, nhất là trong các lĩnh vực có yêu cầu cao về công nghệ, vốn hoặc thị trường.

Với mục tiêu phát triển nhóm ngành công nghiệp phụ trợ, ông Vượng từng đề xuất quy định, yêu cầu “nhà đầu tư nước ngoài tham gia liên doanh góp tối thiểu 30% vốn điều lệ” và duy trì tỷ lệ vốn góp cân bằng giữa hai bên, nhằm giúp doanh nghiệp trong nước có cơ hội học hỏi về công nghệ và mô hình quản trị tiên tiến, thay vì để doanh nghiệp nước ngoài trong một “hộp kín” – không thể tiếp cận, học hỏi được.

“Tôi đã đề xuất quy định này với Bộ Tài chính, nhưng chưa nhận được phản hồi. Trong khi đó, tại Trung Quốc, doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư, phải liên doanh với doanh nghiệp nội địa”, ông Vượng cho biết.

Hợp tác cùng lớn mạnh

Trong quá khứ, những chính sách công nghiệp mang tính kiến tạo, chọn lọc và dài hạn, đã giúp Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) trở thành trung tâm sản xuất công nghệ toàn cầu. Do đó, Việt Nam cần xác lập chính sách công nghiệp tương tự, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân phát triển bền vững.

Không dừng lại ở thị trường trong nước, nhiều sản phẩm công nghiệp do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất đã xuất khẩu sang thị trường quốc tế. Ảnh minh họa: H.T

Nói về định hướng nội địa hóa, ông Lê Phụng Thắng cho biết trong số các doanh nghiệp tư nhân lớn, Thaco đang phát triển KCN chuyên ngành cơ khí tại tỉnh Bình Dương (cũ), nên rất cần chính sách phát triển công nghiệp chế biến – chế tạo cho nội khu. “Nếu thu hút được sự tham gia của họ rất tốt, ít nhất tạo sự lan tỏa ở cấp vùng”, ông Thắng nói.

Còn bà Trần Thị Thu Trang, Chủ tịch HĐQT, Công ty công nghệ thế hệ mới Hanel PT, cho rằng doanh nghiệp Việt Nam có thể bắt đầu bằng cách hợp tác sản xuất thiết bị đầu – cuối, cung cấp cho doanh nghiệp trong nước để gia tăng giá trị các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam trong ngắn hạn.

Chẳng hạn, doanh nghiệp nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ, công nghệ cao có thể hợp tác chế tạo và sản xuất hàng loạt máy sấy lạnh theo công nghệ mới, nhằm hỗ trợ các nông hộ, hợp tác xã, SME tại 34 tỉnh, thành trong việc bảo quản, tái chế sản phẩm nông nghiệp.

Trước đó, có hai đơn vị đã chế biến vỏ quả cà phê thành sản phẩm trà, rồi bán với mức giá cao hơn 5 lần giá cà phê.“Với máy sấy lạnh, doanh nghiệp có thể vào Long An chọn thanh long, rồi chế biến thành snack không dầu, mỡ… mang lại giá trị lớn người nông dân, hợp tác xã và cả ngành nông nghiệp”, bà Trang nói và ước tính việc nâng tỷ lệ chế biến nông, thủy sản thêm 10% sẽ giúp Việt Nam thu thêm 5-7 tỉ đô la Mỹ/năm

Cũng theo địa diện Hanel PT, mô hình này giúp từng doanh nghiệp có thể hợp tác nhau và với hợp tác xã, người nông dân tại địa phương, nhằm nâng cao tiêu chuẩn đầu vào và vừa bảo vệ môi trườn.

“Lúc đó, mỗi trạm chế biến tại các tỉnh, thành sẽ trở thành hạt nhân đổi mới sáng tạo trong cộng đồng, giúp các hợp tác xã và người nông dân có động lực nâng cao giá trị nông sản, hướng tới xuất khẩu sang các thị trường khó tính”, bà Trang nói.

Từ góc nhìn hiệp hội ngành nghề, ông Nguyễn Công Cường, Phó chủ tịch, Hội doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp chủ lực thành phố Hà Nội (HAMI), cho rằng cần sớm xây dựng khung pháp lý đặc thù cho mô hình hợp tác công – tư, đồng thời thành lập quỹ đồng kiến quốc để thực hiện một số dự án. Việc triển khai có thể theo hướng Nhà nước đầu tư hạ tầng, logistics và hỗ trợ chính sách tín dụng, còn doanh nghiệp đầu tư công nghệ và nâng cấp mô hình quản trị hiện đại.

“Thí điểm 3-5 dự án để vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Việc quản trị dựa trên nguyên tắc công khai – minh bạch – có trách nghiệm giải trình, nhờ áp dụng công nghệ số. Sau 3-5 năm triển khai, phải có báo cáo tác động tới kinh tế – xã hội, thể hiện qua số lượng việc làm tạo ra, giá trị xuất khẩu, đóng góp công nghệ, ngân sách”, ông Tùng góp ý.

Vân Phong

Link gốc

Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/doanh-nghiep-san-xuat-viet-nam-manh-nhung-can-ba-do-chinh-sach-de-lon/35775678

////////////khacnhaudoannay
Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *