Các doanh nghiệp tư nhân lớn trong VPE500 tiên phong đổi mới sáng tạo và đầu tư cho khoa học công nghệ, tạo tác động lan tỏa tốt tới các ngành và lĩnh vực.
Thông tin được ông Trần Toàn Thắng – Trưởng ban Ban Quốc tế và chính sách, Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế – tài chính (Bộ Tài chính) chia sẻ tại hội thảo đánh giá 500 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam (VPE500).
Đây là lần thứ 3, VPE được công bố và thực hiện dựa trên 3 tiêu chí gồm quy mô lao động, tổng tài sản và doanh thu gộp. VPE không tập trung xếp hạng mà hướng đến phân tích kết quả hoạt động, liên kết, tác động của nhóm doanh nghiệp VPE500.
Tỷ trọng của VPE500 (Nguồn: Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế – tài chính)
Phân tích cụ thể hơn, ông Trần Toàn Thắng cho biết: báo cáo thực hiện năm nay cho thấy 500 doanh nghiệp tư nhân hàng đầu tuy chỉ chiếm khoảng 0.05% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động nhưng đóng góp 11,83% doanh thu, 17,41% nguồn vốn, và 5,86% tổng lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp.
Với riêng khu vực doanh nghiệp tư nhân, VPE500 đang chiếm tỷ lệ khá lớn: chiếm khoảng 10% lao động, khoảng 22% doanh thu và 34% vốn. Với một số ngành cụ thể, VPE500 đang chiếm tới 50% doanh thu trong ngành ngân hàng, 47% doanh thu với ngành bất động sản.
Tỷ lệ này có xu hướng tăng, cho thấy mức độ tập trung khá cao và tốc độ tăng vốn đầu tư của VPE500 khá ấn tượng. Điều này cũng thể hiện kỳ vọng của khu vực doanh nghiệp lớn vào tăng trưởng kinh tế thời gian tới, đồng thời cho thấy sự chống chịu khá tốt của doanh nghiệp lớn so với doanh nghiệp nhỏ.
Ở khía cạnh khác, các doanh nghiệp VPE500 có tỷ lệ hoạt động khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo cao hơn nhiều với khu vực trong nước khác, kể cả so với khu vực FDI. Là những doanh nghiệp tiên phong đầu tư tốt hơn vào khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, các doanh nghiệp VPE500 có tác động lan tỏa khá tốt tới các ngành và lĩnh vực; không chỉ trực tiếp tạo ra sản lượng lớn mà còn kéo theo sự mở rộng sản xuất ở nhiều ngành khác.
Kết quả tính toán cho thấy nếu sản lượng của VPE500 tăng thêm 1 đơn vị thì tác động khá tốt đến sản lượng các ngành ở mức từ 0,9 đến 2,7. Như vậy, có thể phát triển VPE500 là một công cụ có tính lan tỏa và thúc đẩy nhanh tới tăng trưởng và xuất khẩu.
Theo lãnh đạo Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể, các giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn đã và đang được triển khai
Về tác động lan tỏa cùng ngành, VPE500 có tác động tích cực, có thể giúp năng suất lao động của các doanh nghiệp khác tăng lên (0,12%), phản ánh hiệu ứng học hỏi và tiêu chuẩn cạnh tranh. Điều này rất khác so với tác động âm của khu vực FDI thường thấy trong các nghiên cứu gần đây về tác động lan tỏa năng suất.
“Trong ngắn hạn, vốn VPE500 có thể tạo áp lực cạnh tranh nguồn lực – hiệu ứng “lấn át tạm thời” song về dài hạn vốn này phát huy tác động tích cực lên tăng trưởng giá trị gia tăng” – ông Trần Toàn Thắng cho biết.
Cung cấp thêm thông tin về doanh nghiệp tư nhân lớn, bà Trịnh Thị Hương – Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) cho biết: xét về doanh thu, số liệu năm 2024 cho thấy cả nước có 1.554 doanh nghiệp có tổng doanh thu trên 500 tỷ đồng, trong đó gần 60% là doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Nghị quyết 68 vừa được ban hành đặt mục tiêu hình thành ít nhất 20 doanh nghiệp tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế vào năm 2030 và hình thành các doanh nghiệp tư nhân tầm cỡ khu vực và thế giới, dẫn dắt các ngành kinh tế chủ chốt.
Thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết 68 và các văn bản đã ban hành các giải pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Điển hình, mở rộng sự tham gia của doanh nghiệp tư nhân lớn vào các dự án quan trọng của quốc gia; đẩy mạnh hợp tác PPP; áp dụng hình thức đặt hàng hoặc đấu thầu hạn chế, chỉ định thầu để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược; hỗ trợ chi phí đào tạo nhân lực của doanh nghiệp lớn cho doanh nghiệp SME…
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/doanh-nghiep-tu-nhan-lon-tien-phong-doi-moi-sang-tao/36602396


.jpg)