Trọng trách lớn đi kèm kỳ vọng cao, doanh nghiệp tư nhân đang ở tâm thế vừa được tiếp sức, vừa bị thử thách trong vai trò đầu tàu cho những công trình mang tầm vóc quốc gia.
Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị đã xác lập một bước ngoặt chiến lược, đưa khu vực kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng nhất trong hành trình tăng trưởng mới của đất nước.
Song song với đó là kỳ vọng họ sẽ trở thành đầu tàu ở từng ngành, từng lĩnh vực – từ hạ tầng, năng lượng, logistics cho đến công nghệ cao.
Câu hỏi đặt ra là: liệu các doanh nghiệp này đã thực sự đủ lực để gánh vác những “siêu dự án” đòi hỏi quy mô tài chính lớn, công nghệ cao và yêu cầu phối hợp đa ngành? Họ có thể cạnh tranh sòng phẳng với các tập đoàn nước ngoài ngay trên sân nhà? Và đâu là cơ chế giám sát minh bạch để tránh rủi ro lợi ích nhóm hay méo mó thị trường?
TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển trao đổi về khả năng giao trọng trách cho doanh nghiệp tư nhân trong các dự án trọng điểm.
Thưa Tiến sĩ, Nghị quyết 68 của Bộ Chính trị nhấn mạnh đến nguyên tắc bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Nhưng thực tế, có vẻ vẫn tồn tại sự e dè khi giao cho tư nhân các công trình trọng điểm. Theo ông, điều gì đang cản trở lớn nhất trong cách Nhà nước nhìn nhận khu vực tư nhân khi xét giao các dự án trọng yếu – thiếu lòng tin, lo ngại rủi ro, hay đơn giản là do chính năng lực của các doanh nghiệp tư nhân?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Nghị quyết 68 là một bước cởi trói đột phá nhưng không là tất cả. Có thể hình dung như sau: Từ trước tới nay, mọi người dù đi bộ hay sử dụng các phương tiện như xe đạp, xe máy hay ô tô đều đang ở trong ngõ hẹp thì tốc độ đều cơ bản giống nhau. Thậm chí, người đi bộ, xe đạp còn nhanh hơn đi ô tô và xe máy.
Nghị quyết 68 mở lối hẹp thành con đường lớn và đương nhiên người đi bộ sẽ di chuyển không thể bằng người đi xe đạp, xe máy. Điều này minh họa cho ý nghĩa của Nghị quyết 68 là tạo cơ hội cho doanh nghiệp có tiềm lực để bứt phá.
TS. Lê Xuân Nghĩa, Viện trưởng Viện Tư vấn phát triển. Ảnh: HA
Nhưng nếu chỉ dừng ở việc mở ra đường lớn thì vẫn chưa đủ. Sẽ cần thêm những chính sách công nghiệp hóa thực sự để tăng cường sức mạnh của khu vực doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp nào bứt phá trước thì tạo điều kiện cho doanh nghiệp đó bứt phá một cách mãnh liệt. Như thế chúng ta mới hình thành nên được những tập đoàn lớn.
Vì vậy, việc vẫn còn sự e dè khi cho phép tư nhân bước vào những công trình lớn, trong điều kiện hiện nay chúng ta mới hé mở ngõ hẹp, là điều đương nhiên. Nhưng để một thời gian nữa – khi các doanh nghiệp bứt phá, thì hãy đặt lại vấn đề.
Ví dụ, VinFast đang là một doanh nghiệp khởi nghiệp và trong giai đoạn nghiên cứu và chuẩn bị sản xuất thử. Theo kế hoạch, giai đoạn này của VinFast sẽ kết thúc vào năm 2027 và bắt đầu sản xuất với khối lượng và giá trị lớn sau đó.
Các báo cáo tài chính của VinFast chủ yếu bằng tiếng Anh. Tôi đã nghiên cứu rất kỹ và thấy rằng, tất cả các nhà đầu tư của Mỹ đều tin tưởng rằng VinFast sẽ cất cánh từ năm 2028, sau khi hoàn vốn vào năm 2027 để bù lại toàn bộ giá trị đầu tư của Vingroup rót vào doanh nghiệp này.
Quá trình một tập đoàn công nghiệp từ lúc khởi nghiệp tới khi tạo lập được vị thế trên thị trường quốc tế đòi hỏi từng đó thời gian là đúng.
Như thế cũng để hiểu vì sao có tâm lý e dè hiện hữu trong giao tư nhân các công trình dự án lớn. Nhưng, theo tôi cần phải có lòng tin và cho doanh nghiệp thời gian để chứng minh năng lực. Tin tưởng ở đây, là khi ra đường lớn, các doanh nghiệp lớn sẽ có tốc độ phát triển lớn. Như Vingroup hầu như ở tỉnh nào cũng có dự án, thậm chí dự án quy mô vượt xa từ trước tới nay, và đó là sự bứt phá của Vingroup.
Và thực tế cho thấy, hiện chưa có một doanh nghiệp nào quản lý được hệ thống dự án đô thị nhà ở như Vingroup, hay đơn giản chỉ là triển khai các dự án nhà ở với tốc độ nhanh và chất lượng ổn định như chủ đầu tư này, e rằng sẽ rất hiếm doanh nghiệp quốc doanh hay tư nhân nào khác có khả năng hội đủ tài chính, công nghệ, trình độ quản trị để bứt phá trong cách triển khai dự án tương tự.
Nếu lựa chọn doanh nghiệp tư nhân làm chủ các công trình hạ tầng chiến lược, theo ông đâu là những lo ngại lớn nhất của các cơ quan quản lý hiện nay và liệu chúng có cơ sở không? Hoặc một số ý kiến cho rằng cơ quan quản lý lo ngại tư nhân sẽ đặt lợi ích kinh tế lên trên lợi ích công. Theo ông, đây là định kiến cần thay đổi hay là nỗi lo có cơ sở? Và nếu có cơ sở, cần kiểm soát bằng cách nào thay vì loại trừ?
TS. Lê Xuân Nghĩa: Lo ngại về vấn đề lợi ích kinh tế đặt lên trên lợi ích công, cũng là một điều thông thường. Nguyên nhân, chúng ta chưa có những tập đoàn đủ lớn để đảm nhận các công trình quốc gia quy mô lớn. Còn nay, theo tôi nghĩ chỉ có một tập đoàn đủ khả năng cáng đáng là Vingroup vì họ đã quản lý và tham gia vào những dự án khổng lồ.
Từ trước tới nay, Vingroup hay VinFast đón nhận rất nhiều luồng ý kiến khen – chê. Thế nên, có ba vấn đề lo ngại nhất về việc giao cho tập đoàn tư nhân đảm nhận công trình lớn. Thứ nhất là vốn, tiềm lực tài chính. Mối lo của dư luận là đúng, vì doanh nghiệp tư nhân còn rất trẻ và chỉ ở trạng thái đang khởi nghiệp so với thế giới, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, nên tiềm lực tài chính chưa mạnh.
Thứ hai, năng lực quản trị dự án cũng là mối lo có cơ sở vì doanh nghiệp tư nhân chưa từng quản lý các dự án tương tự về quy mô. Cuối cùng là công nghệ, khi doanh nghiệp chưa thể chủ động hoàn toàn trong cuộc chơi. Và đồng thời, mối lo không thể bỏ qua là viễn cảnh doanh nghiệp tư nhân sẽ đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Nhà nước.
Lợi ích riêng của doanh nghiệp tư nhân ở đây, có thể dẫn dụ với dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam. Lo ngại là bởi chúng ta đang đi những bước đi đầu tiên. Người đi bước chân đầu tiên bao giờ cũng nhận được sự lo lắng, e dè. Nhưng tôi cho rằng có một số cơ sở để có thể tự tin được. Thứ nhất, không có tập đoàn nào không đi những bước đầu tiên. Amazon khởi đầu với một văn phòng vài mét vuông, một máy tính và bàn làm việc và hiện trở thành tập đoàn lớn nhất thế giới.
T3 Tân Sơn Nhất – nhà ga nội địa lớn nhất nước, đưa vào khai thác dịp 30/4 với công suất 20 triệu khách mỗi năm. Ảnh: HA
Thứ hai, cơ chế tài chính cũng rất rõ ràng liên quan đến vốn tự có và phần phải huy động. Doanh nghiệp có thể vay Chính phủ, vay qua hình thức trái phiếu Chính phủ, hoặc vay lại từ vốn ODA, hoặc Chính phủ đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp phát hành trái phiếu, thậm chí cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài. Không ai làm dự án đường sắt tốc độ cao 67 tỷ USD bằng vốn tự có, kể cả Chính phủ làm thì cũng phải đi vay của dân (bằng trái phiếu).
Thứ ba là năng lực quản trị. Rất ít doanh nghiệp tư nhân của chúng ta đủ điều kiện để trải nghiệm thực tiễn quản trị lớn, nhất là trên nền tảng số và AI. Và cho tới nay, đáp ứng duy nhất vẫn dừng ở Vingroup. Khả năng đẩy mạnh quản trị của doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào người tài. Từ cách đây 12 năm, tỷ phú Phạm Nhật Vượng đã đưa ra kế hoạch hợp tác với 54 trường đại học của Việt Nam để đào tạo trong 10 năm nhằm hình thành một đội ngũ khoảng 100.000 kỹ sư về công nghệ thông tin. Trong 100.000 kỹ sư đó, sẽ chọn ra 10.000 người giỏi. Tiếp tục sau đó chọn ra 1.000 người xuất sắc, để rồi cuối cùng tìm được 100 người ‘siêu xuất sắc’. Đây chính là tầm nhìn về trụ cột và nền tảng công nghệ của Tập đoàn Vingroup.
Ông nghĩ gì về thực tế hiện tại không ít doanh nghiệp đứng ra cam kết đủ khả năng đảm nhận các dự án trọng điểm quốc gia dù chưa hội đủ các yếu tố bứt phá về tài chính, công nghệ, quản trị như những tập đoàn hàng đầu như Vingroup, Thaco hay Hòa Phát..? Và cơ sở để họ cam kết là sẽ đưa các chuyên gia, đối tác nước ngoài có đủ những yếu tố trên nhằm bù lấp khoảng trống cần có để có thể tham gia đấu thầu.
TS. Lê Xuân Nghĩa: Theo tôi điều này không đáng tin. Bản thân doanh nghiệp phải có nền tảng khoa học công nghệ nhất định thì mới có thể quản lý được nhân sự và nguồn lực.
Một doanh nghiệp muốn làm được các dự án lớn của quốc gia, ngoài vấn đề tài chính, quản trị, thì cần phải có năng lực quản lý khoa học, những nhân tài để tiếp nhận và vận hành yếu tố khoa học công nghệ trong đầu tư sản xuất. Với đường sắt cao tốc, khó nhất và quan trọng nhất với vận hành là hệ thống điều khiển – mà chúng ta phải nhập, chứ không phải là sản xuất ray hay toa tàu. Nhập khẩu, cũng đòi hỏi trình độ thực sự mới có thể nắm bắt, vận hành được.
Một liên hệ cho thấy sự chuẩn bị có chiều sâu – làm cơ sở để đột phá của doanh nghiệp tư nhân là Vingroup. Chỉ riêng phục vụ công nghệ sản xuất phụ tùng, thiết bị ô tô, tập đoàn này đã tham gia đào tạo hàng nghìn kỹ sư cả trong và ngoài nước để rồi sau đó chọn ra lực lượng tinh hoa nhất.
Xin cảm ơn ông!
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/giao-viec-lon-cho-tu-nhan-niem-tin-co-du-lon/34677381