Trước sự sôi động và cơ hội từ thị trường thế giới do những biến động về chính sách kinh tế, xu hướng phát triển mới…, cùng với sự lớn lên của các doanh nghiệp Việt Nam, những kế hoạch đầu tư ra nước ngoài là điều được cả nền kinh tế mong chờ và khích lệ.
Theo số liệu từ Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Tài chính), tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài (vốn cấp mới và điều chỉnh) đạt 846,8 triệu USD sau 9 tháng đầu năm, gấp 4,5 lần so với cùng kỳ năm trước.
Về lĩnh vực đầu tư, 9 tháng đầu năm, sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí dẫn đầu với 341,5 triệu USD, chiếm 40,3% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam. Theo sau là án buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt gần 121 triệu USD; chiếm 14,3%; vận tải kho bãi đạt 109,2 triệu USD; chiếm 12,9% tổng vốn đầu tư.
Xét về lãnh thổ nhận đầu tư, 9 tháng đầu năm, 34 quốc gia và vùng lãnh thổ nhận đầu tư của Việt Nam. Trong đó, Lào là nước dẫn đầu với 397,2 triệu USD, chiếm 46,9% tổng vốn đầu tư. Theo sau đó, Philippines với 92,0 triệu USD, chiếm 10,9%; Indonesia với 64,6 triệu USD, chiếm 7,6%; Đức đạt 50,6 triệu USD, chiếm 6,0%; Mỹ với 33,3 triệu USD, chiếm 3,9% tổng vốn đầu tư.
Theo thống kê, đa phần các dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam là dự án có quy mô vốn đầu tư dưới 20 tỷ đồng, chiếm tới 67% tổng số dự án, nhưng chỉ chiếm khoảng 1,7% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, số dự án có vốn đầu tư trên 20 tỷ đồng chiếm khoảng 28% tổng số dự án, nhưng chiếm phần đa về vốn, khoảng 98,3% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài. Số còn lại là các dự án nhỏ dưới 1,2 tỷ đồng (tương đương 50.000 USD).
Đầu tư ra nước ngoài Việt Nam chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 từ năm 1989 – năm 2020: đặt nền móng và mở rộng dòng vốn. Đây là giai đoạn Việt Nam củng cố năng lực doanh nghiệp trong nước, khuyến khích doanh nghiệp Nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân bắt đầu mở rộng ra nước ngoài (nhất là khai khoáng, nông nghiệp, thương mại). Đồng thời, đặt nền tảng pháp lý ban đầu cho doanh nghiệp Việt mở rộng đầu tư kinh doanh.
Trong giai đoạn này, vào năm 1989, doanh nghiệp tiền thân của Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) ngày nay đã thành lập liên doanh khai thác dầu khí tại Liên Xô (nay là Nga) và một số nước Đông Âu, đánh dấu hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài rõ nét nhất của Việt Nam thời kỳ đầu.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt (LaoVietBank, viết tắt LVB), liên doanh giữa BIDV (Việt Nam) và BCEL (Lào) được thành lập năm 1999 tại Viêng Chăn, phát triển liên tục trong suốt hơn 25 năm qua, đảm đương vai trò “cầu nối” thanh toán, đầu tư giữa hai nền kinh tế.
Từ đó, danh sách các công ty đầu tư nước ngoài góp mặt nhiều tập đoàn tư nhân, công ty cổ phần như: Tập đoàn Viettel, FPT, Vinamilk, NutiFood, TH True Milk… với số vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài tính bằng tỷ USD, đưa trí tuệ, hình ảnh Việt Nam ra thế giới.
Trong đó, khối thị trường nước ngoài của Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông quân đội (Viettel) tính đến đầu năm 2025 đã có 8 năm liên tiếp tăng trưởng hai con số. Tập đoàn đã hoàn vốn đầu tư tại 5 thị trường và đạt tỷ lệ hoàn vốn chung lên đến 85%. Dòng tiền chuyển về nước trong năm 2024 của Viettel đạt 467 triệu USD.
Giai đoạn 2 từ năm 2021 đến năm 2024: định hướng và tăng trưởng dòng vốn. Giai đoạn này ghi nhận biến động do dịch Covid-19, dịch chuyển chuỗi cung ứng và biến động giá hàng hoá, nhưng dòng vốn đầu tư ra nước ngoài ghi nhận sự bứt phá khi năm 2022 ghi nhận 534 triệu USD vốn đầu tư mới cộng với điều chỉnh; năm 2023 ghi nhận 421 triệu USD; năm 2024 tăng mạnh lên 665 triệu USD.
Đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam tập trung vào khu vực ASEAN
Gần 4 thập kỷ hoạt động đầu tư của Việt Nam diễn ra sau khi Luật Đầu tư ra nước ngoài được ban hành và có hiệu lực từ đầu năm 1988, dòng vốn của Việt Nam ghi dấu ấn mạnh tại thị trường các quốc gia ASEAN.
Tính đến cuối năm 2024, tổng vốn đầu tư của Việt Nam vào các quốc gia ASEAN đạt khoảng 11,92 tỷ USD, chiếm 52,64% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam.
Xét về số lượng dự án, tính đến cuối năm 2024, Việt Nam đầu tư nhiều nhất vào Lào với 269 dự án. Theo sau lần lượt là Campuchia, Singapore, Myanmar với lần lượt 214 dự án, 180 dự án và 104 dự án. Đây cũng là những quốc gia nhận nhiều dự án đầu tư nhất của Việt Nam trong tổng số 84 quốc gia được rót vốn, chỉ sau Hoa Kỳ (246 dự án).
Xét về số lượng vốn đầu tư, tính đến cuối năm 2024, Lào là quốc gia dẫn đầu về thu hút đầu tư nước ngoài từ Việt Nam với 5,72 tỷ USD, chiếm 25,1% vốn. Theo sau là Campuchia với gần 2,94 tỷ USD, chiếm 13% vốn. Một quốc gia khác trong khu vực ASEAN cũng đón nhận dòng vốn tỷ USD là Myanmar với 1,5 tỷ USD.
Đầu tư ra nước ngoài: Đã đến lúc phải đi bằng “hai chân”
TS Phan Hữu Thắng, Chủ tịch Liên chi hội tài chính Khu công nghiệp Việt Nam (VIPFA), nguyên Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài phân tích, vốn FDI thường được đề cập là nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một quốc gia này đầu tư sang các quốc gia khác. Còn hoạt động đầu tư ra nước ngoài (OFDI) cũng là nguồn vốn FDI nhưng được các quốc gia sử dụng để chỉ rõ đây là nguồn vốn đầu tư trực tiếp của quốc gia mình đầu tư sang các quốc gia, vùng lãnh thổ khác.
Kinh tế Việt Nam muốn phát triển phải đi lên từ “hai chân” vừa thu hút FDI, vừa đẩy mạnh OFDI. Đây là nền tảng vững chắc để trở thành một nền kinh tế tự chủ, tự cường, một quốc gia phát triển.
Thực tế cho thấy, Việt Nam đang đứng trước rất nhiều cơ hội để đẩy mạnh dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Mới đây, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng của kinh tế Việt Nam vào kinh tế thế giới hiện nay, OFDI của kinh tế tư nhân, cùng với sự năng động phát triển chung của cả nền kinh tế, chắc chắn sẽ tìm hướng mở rộng thị trường ra bên ngoài.
Vốn đầu tư và số dự án đầu tư ra nước ngoài tăng dần qua các năm, cho thấy doanh nghiệp Việt Nam ngày càng chủ động tìm kiếm cơ hội bên ngoài. Đồng thời, đa dạng hoá điểm đến trong khu vực ASEAN, sự hiện diện mạnh ở Lào, Campuchia giúp doanh nghiệp Việt Nam khai thác lợi thế địa lý, logistic với chi phí thấp.
Một số dự án có lợi nhuận, bắt đầu xuất hiện các thương vụ mua bán sáp nhập (M&A), cho thấy vốn đầu tư ra nước ngoài bước đầu chuyển sang hoạt động giá trị cao hơn.
Tuy nhiên, theo ông Phan Hữu Thắng, quy mô vốn dự án vẫn nhỏ so với quy mô nền kinh tế và so với FDI vào Việt Nam. Bên cạnh đó, vốn đầu tư ra nước ngoài thiếu các dự án chiến lược, công nghệ cao có tác động lan tỏa, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khai khoáng, nông nghiệp, dễ bị rủi ro bởi giá hàng hóa, môi trường,…
Nguyên nhân là do quy mô doanh nghiệp Việt Nam, phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME), vốn và chuyên môn còn hạn chế, tuy nhiên lại đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên cần vốn lớn, đòi hỏi công nghệ chuyên sâu, kỹ thuật cao.
Một nguyên nhân khác là do khung chính sách và hỗ trợ chưa hoàn chỉnh. Ông Thắng cho hay, mặc dù có chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, nhưng thiếu quỹ hỗ trợ, bảo hiểm rủi ro chính trị, cơ chế thúc đẩy M&A, và hỗ trợ tiếp cận thị trường pháp lý.
Ngoài ra, OFDI phải đổi mặt với rủi ro và chi phí thông tin như chi phí tìm hiểu thị trường, thủ tục, và rủi ro chính trị/khí hậu ở nước nhận đầu tư khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam mà phần lớn là các doanh nghiệp nhỏ e dè.
Trước những cơ hội mới, Chủ tịch VIPFA kiến nghị một số giải pháp trọng tâm thúc đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Thứ nhất, cần có mục tiêu chiến lược ngắn – trung hạn đến năm 2030. Từ OFDI “vốn lớn, tài nguyên” sang “OFDI giá trị cao”, Việt Nam cần ưu tiên hỗ trợ các dự án công nghệ, nghiên cứu và phát triển, chuỗi cung ứng toàn cầu, trung tâm dịch vụ nhằm tạo ra giá trị gia tăng cao.
Thứ hai, liên quan tới các giải pháp hành chính, kỹ thuật. Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý và thủ tục một cửa cho OFDI thông qua việc rút ngắn thời gian, minh bạch, có hướng dẫn M&A xuyên biên giới, ưu đãi thuế cho thu nhập từ hoạt động quốc tế hợp pháp.
Có chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, tích cực triển khai mở rộng hiệp định thương mại và bảo hộ đầu tư, khuyến khích hợp tác công‑tư (PPP) và nhà đầu tư chiến lược.
Thứ ba, liên quan đến công cụ tài chính và nhân lực. Đối với Nhà nước cần đứng ra tổ chức nghiên cứu thị trường; bảo lãnh tín dụng cho dự án OFDI có phương án kinh tế rõ ràng.
Thực hiện chương trình đào tạo nhân sự quốc tế, thông qua kết nối doanh nghiệp với trường đại học, chương trình thực hành, nâng cao năng lực quản trị, pháp chế, M&A, logistics xuyên biên giới. Khuyến khích khởi nghiệp công nghệ mở rộng ra thị trường toàn cầu với ưu đãi thuế, nghiên cứu và phát triển, hỗ trợ pháp lý.
Thứ tư, Việt Nam cần xác định tầm nhìn dài hạn đến 2045, với các mục tiêu tập trung xây dựng một số tập đoàn Việt Nam thành nhà đầu tư toàn cầu ở một vài ngành then chốt (năng lượng sạch, viễn thông, công nghệ thông tin, chuỗi giá trị chế tạo, logistic);
Chuyển đổi cơ cấu OFDI từ khai khoáng/nông nghiệp sang công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ tài chính‑thanh toán xuyên biên giới, năng lượng tái tạo, sản xuất giá trị gia tăng.
Xây dựng hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện: pháp luật, quỹ, mạng lưới đại sứ quán/thương vụ, nguồn nhân lực, hệ sinh thái khởi nghiệp hợp lực để doanh nghiệp Việt Nam khi ra nước ngoài có hỗ trợ ngay từ đầu.
Thứ năm, Việt Nam cần tiến hành cụ thể việc xây dựng chương trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đầu tư OFDI. Đồng thời, Việt Nam cần phát triển hệ thống thông tin và dữ liệu OFDI minh bạch, công khai danh sách dự án, hiệu quả, lợi nhuận, rủi ro để học hỏi và dựa vào đó ra chính sách tốt hơn.
Cùng với quá trình trưởng thành và phát triển của mình, đầu tư ra nước ngoài là bước đi chủ động để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu, tìm kiếm cơ hội nhập khẩu công nghệ, phát triển thị trường mới, tìm kiếm khách hàng…
Tất nhiên, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững ở nước ngoài thì bản thân họ cần có định hướng hoạt động kinh doanh lâu dài, tạo dựng được thương hiệu và uy tín. Bên cạnh đó, các bộ ngành chức năng cần hướng đến một tầm nhìn dài hạn về đầu tư quốc tế, từ đó tăng cường hơn nữa việc nghiên cứu, đánh giá, phân tích cụ thể về quốc gia nhận đầu tư.
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang rộng mở nhiều cơ hội, kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài đang dần được tích lũy, doanh nghiệp phải đi từng bước phù hợp với trình độ và điều kiện phát triển của nền kinh tế Việt Nam, cũng như mối quan hệ quốc tế và vị thế của Việt Nam trên thế giới ở từng giai đoạn.
Đầu tư ra nước ngoài cần là “một cuộc chơi dài hơi” với nhận thức đây một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội quốc gia, song không mơ hồ khi khát vọng đưa con tàu Việt Nam ra biển lớn vẫn đang phía trước.
Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/go-global-cuoc-choi-dai-hoi-cua-doanh-nghiep-viet/36091032