Ngành dệt may khó có thể đi xa nếu mãi “đi làm thuê”

Sau giai đoạn trầm lắng do suy thoái toàn cầu, ngành dệt may Việt Nam đang có những tín hiệu phục hồi rõ rệt trong quý II/2025. Xuất khẩu tháng 5 đạt tới 3,71 tỷ USD, tăng gần 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế 5 tháng đầu năm, toàn ngành đạt hơn 17,5 tỷ USD kim ngạch, tăng 9% so với cùng kỳ, điều này cho thấy đà tăng trưởng mạnh trở lại. Mục tiêu cán mốc 48 tỷ USD xuất khẩu của ngành trong năm nay đang dần trở nên khả thi.

5 tháng đầu năm, toàn ngành đạt hơn 17,5 tỷ USD kim ngạch, tăng 9% so với cùng kỳ

Tuy nhiên, đằng sau những con số sáng sủa ấy là một sự thật dai dẳng: ngành dệt may Việt Nam vẫn chủ yếu làm gia công cho các thương hiệu nước ngoài, giá trị gia tăng thấp, phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu. Nếu không sớm có chiến lược chuyển dịch mô hình sản xuất, Việt Nam sẽ tiếp tục mắc kẹt trong “bẫy gia công” – vừa mong manh trước biến động thị trường, vừa bị động trước các rào cản thương mại mới.

Gia công giá rẻ chính là con dao hai lưỡi

Trong chuỗi giá trị ngành may mặc, mô hình phổ biến của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là CMT (Cut – Make – Trim), tức là doanh nghiệp chỉ thực hiện khâu cắt, may và hoàn thiện sản phẩm. Nguyên liệu, thiết kế, phân phối đều do đối tác nước ngoài đảm nhiệm. Vì vậy, lợi nhuận mà doanh nghiệp Việt Nam thu được thường khá khiêm tốn, chỉ khoảng 5–7%.

Ông Trần Như Tùng, Phó Chủ tịch Vinatex chia sẻ, nếu không nhanh chóng chuyển sang mô hình sản xuất chủ động hơn như FOB hay ODM, doanh nghiệp Việt sẽ tiếp tục rơi vào thế bị động. Mỗi biến động nhỏ từ thị trường hay chính sách sẽ dẫn đến cú sốc lớn đối với doanh nghiệp.

Lợi nhuận mà doanh nghiệp Việt Nam thu được thường khá khiêm tốn, chỉ khoảng 5–7%.

Điển hình là chính sách thuế mới của Mỹ, thị trường tiêu thụ dệt may lớn nhất của Việt Nam. Từ tháng 4/2025, Mỹ áp thuế trả đũa lên tới 46% với hàng dệt may từ một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cộng với thuế cơ bản, tổng mức thuế có thể vượt 60%, khiến hàng Việt Nam mất gần như toàn bộ lợi thế cạnh tranh về giá.

Trong khi đó, do chủ yếu gia công, phần giá trị gia tăng nội địa trong mỗi sản phẩm may mặc xuất khẩu chỉ đạt khoảng 45–50%. Phần lớn nguyên phụ liệu (đặc biệt là vải) vẫn nhập từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan. Điều này không chỉ khiến doanh nghiệp khó đạt tiêu chuẩn quy tắc xuất xứ trong các FTA như EVFTA, CPTPP mà còn khiến toàn ngành dễ tổn thương trước đứt gãy chuỗi cung ứng.

Tái cấu trúc chuỗi giá trị để không bị tụt lùi

Ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Dệt may Thêu đan TP. Hồ Chí Minh cho biết, để nâng cao năng lực cạnh tranh và đi xa hơn trên thị trường toàn cầu, ngành dệt may Việt Nam cần mạnh dạn chuyển đổi lên các mô hình sản xuất có giá trị cao hơn: FOB (Free on Board) là doanh nghiệp chủ động cung ứng nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất và giao hàng; ODM (Original Design Manufacturing) là doanh nghiệp tham gia vào khâu thiết kế sản phẩm theo yêu cầu thị trường; OBM (Own Brand Manufacturing) là doanh nghiệp tự phát triển và sở hữu thương hiệu riêng.

Chuyển từ CMT sang FOB là bước chuyển đầu tiên và dễ thực hiện. Nhưng để tiến tới ODM, OBM thì phải đầu tư bài bản cho khâu thiết kế, xây dựng thương hiệu, tiếp cận người tiêu dùng cuối cùng, đây là điều mà phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam chưa thể làm được trong thời gian ngắn.

Một số doanh nghiệp lớn như May 10, TNG, Việt Tiến hay Thành Công đã đi trước với tỷ lệ đơn hàng FOB chiếm 60-70%, có đơn vị đạt 10-15% theo hình thức ODM. Song đây vẫn chỉ là con số khiêm tốn so với các đối thủ như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ hay Bangladesh đã có mô hình ODM chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sản xuất.

Ngành dệt may Việt Nam cần mạnh dạn chuyển đổi lên các mô hình sản xuất có giá trị cao hơn

Chuyển đổi mô hình sản xuất đòi hỏi không chỉ nỗ lực nội tại từ doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ đồng bộ từ phía Nhà nước. Cần có quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành dệt may, đặc biệt là các khu công nghiệp dệt – nhuộm khép kín. Việc chủ động nguồn nguyên liệu trong nước không chỉ giảm chi phí, rút ngắn thời gian giao hàng mà còn giúp đáp ứng yêu cầu xuất xứ trong các FTA.

Bên cạnh đó, cần có chính sách ưu đãi tín dụng xanh, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiết kiệm năng lượng, xử lý nước thải, sử dụng sợi tái chế. Xu hướng “sản xuất bền vững” đang là tiêu chí bắt buộc từ các nhà mua hàng quốc tế.

Đồng thời, Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp về xây dựng trung tâm thiết kế thời trang, trung tâm R&D ngành may mặc, thúc đẩy sáng tạo nội địa. Đây là nền tảng để doanh nghiệp từng bước tiếp cận mô hình ODM và phát triển thương hiệu riêng.

Quan trọng nhất là đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, từ thiết kế, marketing, quản trị chuỗi cung ứng đến thương mại điện tử là yếu tố then chốt để ngành dệt may Việt Nam bứt phá khỏi “cái bóng gia công”. Ngành dệt may Việt Nam đang có cơ hội lớn để tăng trưởng nhờ dân số lao động dồi dào, vị trí địa lý thuận lợi và các FTA ưu đãi. Nhưng nếu vẫn tiếp tục dựa vào gia công giá rẻ, lợi thế này sẽ nhanh chóng bị xói mòn khi công nghệ thay đổi, chi phí tăng và yêu cầu thị trường nâng cao.

Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Vinatex nhấn mạnh, không thể đi xa nếu cứ mãi đi làm thuê, phải chuyển đổi tư duy, tái cấu trúc mô hình sản xuất, đi lên chuỗi giá trị cao hơn, nếu không muốn tụt lại phía sau trong cuộc đua toàn cầu hóa ngành dệt may.

Đức Hiền-Link gốc

Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/nganh-det-may-kho-co-the-di-xa-neu-mai-di-lam-thue/33197852

Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *