SAM: Một thời của doanh nghiệp đầu tiên niêm yết – Từ nhà máy ‘trơ xương’, bán cổ phần không ai ngó đến thu 1.700 tỷ thặng dư ngay trước đỉnh khủng hoảng

Trải qua nhiều thăng trầm của thị trường từ những ngày đầu tiên, nhìn lại quyết định lên sàn, ông Đỗ Văn Trắc – nguyên Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc SACOM (nay là SAM Holdings) chia sẻ: “Dù thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn khẳng định quyết định lên sàn là đúng đắn nhất. Nếu không lên sàn, SACOM giỏi lắm cũng chỉ làm được một vài nhà máy”.

 

“Bọn em xin nhận” – ông Đỗ Văn Trắc, khi ấy là Giám đốc đã đại diện công ty báo cáo về quyết định niêm yết với đoàn Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Quyết định ấy, có phần khác biệt, ông Trắc chia sẻ với chúng tôi, khi đoàn Ủy ban làm việc với hàng chục công ty cổ phần lớn trước đó, họ đều xin phép bàn bạc lại.

Và cuối cùng, ngày 28/7/2000 – ngày mở cửa phiên đầu tiên, thị trường chứng khoán chỉ có đúng 2 cổ phiếu SAM (CTCP Cáp và Vật liệu Viễn thông – SACOM, nay là SAM Holdings) và REE (CTCP Cơ điện lạnh) giao dịch.

Ông có thể chia sẻ về những khó khăn ban đầu của SACOM khi chưa cổ phần hóa, đặc biệt là trong việc vận hành nhà máy sản xuất cáp?

Trước khi cổ phần hóa, SACOM gặp vô vàn khó khăn. Nhà máy lúc đó là chiến tranh để lại, vốn là nhà máy sản xuất cáp phục vụ chiến tranh. Khi giải phóng, Mỹ mang hết đầu máy, chỉ còn lại bộ khung, một khung xương mà thôi – mà khung xương thì có hoạt động được gì đâu. Vào năm 1993, khi chúng tôi tiếp nhận, nhà máy như bỏ hoang, giàn máy không có đầu bọc nguyên bản. Tổng cục Bưu điện khi ấy đã có chủ trương tháo máy để đưa ra Gia Lâm.

Đến năm 1996, chúng tôi đến Tổng cục Bưu điện, khó khăn lắm mới vay được 200.000 đô để nhập đầu máy mới. Rồi chúng tôi phải sang Úc, nhờ một người Thái kết nối thì mới mua được đầu máy và mời chuyên gia Úc sang tận nơi để lắp ráp. Sau đó, anh em trong nhà máy bắt đầu học dần công nghệ để có thể tự sản xuất ra cáp.

Ngày ấy, không tìm được nguyên vật liệu chính cũng là một cái khó nữa ở giai đoạn đầu. Chúng tôi toàn phải mua nhựa PVC, ra Chợ Lớn tìm bồ hóng về trộn lại để làm cho vỏ cáp đen. Ở thời kỳ đầu của SACOM, Mỹ còn cấm vận, mọi thứ vẫn rất khó khăn.

Là một trong những doanh nghiệp cổ phần hóa rất sớm, ở thời điểm đó, SACOM đã phải đối mặt với những khó khăn nào?

Khoảng năm 1996-1997, chúng tôi bắt đầu làm hồ sơ. Đến năm 1997, Thủ tướng ký văn bản đồng ý chủ trương cho phép SACOM cổ phần hóa, giao Tổng cục Bưu điện quyết định chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần. Tháng 3 năm 1998, SACOM tổ chức Đại hội Cổ đông, lúc đó tôi vẫn là Phó Giám đốc.

Ban đầu, giá trị doanh nghiệp được ghi nhận là 6 tỷ đồng – thời điểm còn do ông Mai Liêm Trực, khi ấy là Tổng Cục trưởng Tổng Cục Bưu điện ký xác nhận. Đến khi thực hiện cổ phần hóa, lãnh đạo Bộ Tài chính đến đánh giá, tính toán từng viên gạch, từng vách chắn, máy móc và nhân hệ số, cuối cùng kết quả định giá là hơn 26 tỷ đồng.

Tuy nhiên, khi xây dựng phương án, SACOM tính toán phải có 120 tỷ đồng để nhập thiết bị. Chúng tôi tính sơ bộ, muốn mua một dây chuyền sản xuất cáp từ Thụy Sĩ thì ít nhất phải tốn 5-6 triệu đô, ngoài ra, đã có cáp thì phải có ống luồn cáp, nên phải có một dây chuyền sản xuất ống nhựa.

Lúc đó, Nhà nước đề nghị giữ 51%, chúng tôi phải ra tận nơi “năn nỉ” để giảm xuống còn 49%. Bởi, nếu cổ phần hóa mà Nhà nước giữ 51% thì sẽ bị chi phối – từ chiến lược đến nhân sự, vậy thì không còn gì là đổi mới.

Cổ phần hóa xong thì đến chuyện chào bán, khi ấy Nhà nước có quy định lãnh đạo bị giới hạn số cổ phần được mua, ngay cả tăng vốn cũng không được mua thêm. Kết quả, anh em chúng tôi phải phân công nhau mang ba-lô khăn gói đi khắp miền Nam, khắp miền Trung, rồi đi đến Tổng cục Bưu điện xin cho một phòng ở phía dưới để thực hiện chào bán cổ phần.

Nhưng mà có ai mua đâu! Không ai mua cả vì công ty khó khăn.

Năm 2000, SACOM là một trong hai công ty hiếm hoi niêm yết trên sàn chứng khoán. Câu chuyện niêm yết được khởi đầu ra sao? Vì sao SACOM đồng ý lên sàn khi nhiều công ty còn e ngại?

Nói về câu chuyện ngày xưa là nhắc đến ông Lê Văn Châu – một người có đóng góp rất lớn cho đất nước, từng được biệt phái sang làm việc tại Mỹ với vai trò đại diện Ngân hàng Nhà nước, ông cũng làm mọi cách để chuyển tiền từ Hồng Kông về cho Việt Nam. Sau giải phóng, ông làm Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.

Đến ngày 28/11/1996, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ban hành Nghị định thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, và ông Lê Văn Châu được cử làm là Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán đầu tiên.

Hồi đó, một đoàn khoảng gần chục người, có ông Lê Văn Châu và bà Vũ Thị Kim Liên (nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) vào làm việc với SACOM. Sau này, ông Châu tâm sự, đoàn đã đi làm việc với 14 doanh nghiệp cổ phần hóa, SACOM là đơn vị thứ 15. Tại các lần làm việc trước đó, lãnh đạo hoan nghênh lắm, nói rằng đoàn thuyết minh công việc rất hay. Tuy nhiên, họ đều xin phép họp lại để bàn bạc chuyện đăng ký niêm yết.

Còn đối với SACOM, sau khi ông Lê Văn Châu giới thiệu xong, chúng tôi thấy tốt quá! Bởi, lúc đó vay vốn khó lắm. Trong khi đó, đoàn Ủy ban Chứng khoán đến giới thiệu quy trình và nói: “Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn rất rẻ cho doanh nghiệp”. Nghe đến đấy, chúng tôi thấy sướng rồi, bởi thị trường mở cho mình một cơ hội để huy động vốn.

Khi SACOM lên sàn, chúng tôi xác định rất rõ điểm trọng tâm là có điều kiện huy động vốn, với giá vốn huy động rẻ hơn so với vay ngân hàng. Thứ hai, khi đã niêm yết, chắc chắn bộ máy phải đi theo guồng, mọi người phải cùng tiến lên chứ không thể “lừng khừng” được. Ngoài ra, điều này cũng tạo áp lực sản phẩm phải liên tục đổi mới, thì nhà đầu tư mới tin tưởng.

Kết thúc buổi làm việc, với tư cách là Giám đốc, tôi đứng lên thay mặt ban lãnh đạo SACOM báo cáo với đoàn Ủy ban Chứng khoán: “Bọn em xin nhận!”.

Thế còn trong quá trình chuẩn bị niêm yết, SACOM đã gặp khó khăn ra sao?

Giai đoạn đầu cực kỳ vất vả, khi quyết định lên sàn, lãnh đạo hiện tại rất ủng hộ. Nhưng cũng có lãnh đạo cấp cao nói thẳng: “Tôi không đồng ý đưa doanh nghiệp lên sàn đâu”. Vì họ sợ, sợ mất tiền, sợ rủi ro. Hay khi chúng tôi ra Hà Nội làm việc, gặp lãnh đạo các cấp thì họ cũng không chấp nhận. Chúng tôi phải thuyết phục hết người này người kia thì mới được chấp thuận.

Câu chuyện làm hồ sơ niêm yết cũng vất vả. Chúng tôi làm bản cáo bạch sớm hơn REE. Nhưng hồi đó, REE có Dragon Capital tư vấn, viết cáo bạch một phát ăn ngay. Còn chúng tôi thì nghèo quá, không dám đi thuê mà tự mình làm. Bản thân tôi phải dùng kinh nghiệm kế toán trưởng lâu năm để làm.

Vậy là tôi mới ngồi viết, viết rất kỹ về kết quả kinh doanh các năm trước, lợi nhuận, phân chia ra sao, người lao động thế nào, rồi kế hoạch hiện tại, kế hoạch 5 năm sau, phân tích cả yếu tố rủi ro để trình bày với nhà đầu tư khi lên sàn.

Chúng tôi gửi bản cáo bạch cho Ủy ban Chứng khoán, Ủy ban chỉnh sửa một ít, rồi sau đó chuyển sang Bộ Tài chính, Bộ lại chỉnh tiếp. Tôi nhớ lúc đó chỉnh đi chỉnh về mất khoảng hơn 5 tháng mới xong. Cuối cùng REE nhanh hơn, SAM xếp thứ hai.

Có kỷ niệm nào khác trước khi lên sàn khiến ông nhớ nhất không?

Sau khi SACOM đăng ký sẽ lên sàn, ông Lê Văn Châu mừng lắm vì đã có doanh nghiệp mạnh dạn làm. Ngay hôm sau, ông bảo bố trí cho đoàn đi thăm nhà máy. Vậy là tôi dẫn đoàn đi thăm nhà máy SACOM ở Đồng Nai. Lúc ấy ông Lê Văn Châu thấy nhà máy sạch sẽ, nhưng thiết bị thì “loảng xoảng” lắm, chẳng có gì, vì lúc đó công ty chưa nhập thiết bị mới về.

Thỉnh thoảng, tôi liếc thấy ông Châu thở dài ngao ngán. Ông bảo với chúng tôi, đã đi mười mấy doanh nghiệp, mãi đến SACOM mới thấy đăng ký ngay, cứ tưởng sẽ thấy nhà máy hoành tráng lắm.

Đến lúc về văn phòng, ông Lê Văn Châu hỏi chúng tôi: “Tại sao SACOM dám đăng ký lên sàn với nhà máy như thế này?”.

Tôi phát biểu luôn, rằng SACOM tự tin vì là nhà máy sản xuất cáp và vật liệu viễn thông danh chính ngôn thuận, được Nhà nước công nhận. Bên cạnh đó, nếu mình muốn cho các nhà đầu tư vào Việt Nam thì đường xá phải thông thoáng, thông tin Bưu điện phải đáp ứng cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, thông tin cần phải đi trước.

Chúng tôi cũng báo cáo rằng đã chứng kiến ông Đặng Văn Thân – Anh hùng Lao động, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Bưu điện đi ra nước ngoài mua vài sợi cáp rất khó khăn. Bị cấm vận, phải qua Thái Lan, chuyển qua Hồng Kông rồi mới chuyển về Việt Nam được. Do đó, khi cổ phần hóa, SACOM chủ động tăng vốn lên 120 tỷ đồng, rồi đã ký luôn hợp đồng nhập dây chuyền sản xuất mới từ Thụy Sĩ. Tôi trình bày cả hợp đồng cho ông xem.

Khi nghe xong, ông Châu mới yên tâm, tôi quan sát thấy nét mặt đã tươi tỉnh lại. Chứ rõ ràng, sau khi nhìn dây chuyền, ông ấy buồn.

Và sau đó, ngày 20 tháng 7 năm 2000, SAMREE lên sàn. Hình ảnh lúc đó tôi còn nhiều lắm!

Khi SACOM chính thức niêm yết, việc giao dịch trên sàn diễn ra như thế nào, thưa ông?

Lên sàn trong giai đoạn đầu thì bạn biết rồi đấy, thiết bị của sàn yếu, đặt lệnh toàn bằng tay. Nhà đầu tư phải chầu trực ra thật sớm, mở cửa cái là phải vào lệnh ngay. Mua được cổ phiếu hôm trước, hôm sau đã có lời rồi – mà không phải lời ít đâu, toàn kịch trần cả!

Giai đoạn đầu, giá cổ phiếu SAM toàn trên REE. Vì sản phẩm của chúng tôi là chuyên về lĩnh vực viễn thông – cáp viễn thông, còn REE thì làm cơ điện lạnh. Thế nên mấy năm đầu, SAM toàn “nằm trên”, REE “nằm dưới”. Sau này, REE bứt lên mạnh lắm. Anh em trên sàn còn hay đùa: “Ông Trắc lại nằm dưới rồi!” – anh em nói vui nhưng tôi cũng buồn lắm! Nhưng bản thân REE cũng có nhiều lợi thế riêng.

Tôi còn nhớ, khi lên sàn rồi, tình hình sáng sủa hơn nhiều. SACOM có năng lực sản xuất, có nguồn vốn tự tạo ra, giá cổ phiếu lên rồi thì bắt đầu bán. Sau khi lên sàn, chúng tôi bán ba lần mà không mất lấy một đồng chi phí dịch vụ nào.

Lần cuối cùng, chúng tôi chào bán với giá 150.000 đồng/cp, gấp 15 lần mệnh giá. Bên quỹ Temasek, khi ấy do bà Hà Tinh – vợ cựu Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long điều hành, định giá 115.000 đồng/cp. Hồi đó được giá vậy là sướng lắm rồi, vì lời hơn mười lần. Khi đó, chúng tôi có kế hoạch bán khoảng 30-39% cổ phần.

Nhưng sau đó chúng tôi không bán, để lại bán cho anh em trong nước, vẫn được giá 150.000 đồng/cp. Đợt bán lần thứ ba đó, SACOM thu về 1.700 tỷ đồng thặng dư. Đó là vào khoảng 2007 – đúng đỉnh của thị trường, ngay trước khi khủng hoảng tài chính năm 2008 xảy ra.

Việc lên sàn chắc hẳn mang lại không ít áp lực mới. Vậy đâu là những thách thức lớn nhất mà SACOM phải đối mặt sau khi trở thành công ty đại chúng, thưa ông?

Chủ yếu là áp lực ban đầu, nằm ở chỗ mình là công ty công chúng, phải báo cáo về chuyện làm ăn như tài chính thế nào, có lành mạnh không, phải quan tâm nhà đầu tư kỳ vọng ở mình những gì. Áp lực còn đến từ chỗ khác nữa. Cổ phần rồi, lên sàn rồi, thì năm nay phải hơn năm trước, năm tới lại phải hơn nữa. Nếu không thì giá cổ phiếu tụt. Mà giá tụt thì cổ đông bán tháo, cứ thế công ty bị mất uy tín.

Thành ra cái áp lực nó đủ thứ: từ cổ đông, từ lợi nhuận, từ sản phẩm mới… nhiều vấn đề. Nhưng SACOM vượt qua được nhờ đội ngũ trẻ có năng lực – toàn là sinh viên Đại học ra trường, vào làm với tinh thần gắn bó thật sự. Thực tế, họ còn có lợi ích trong đó, và điều đó tạo ra động lực căn bản nhất để họ cống hiến với công ty.

Nhìn lại hành trình đã qua, bây giờ ông cảm thấy thế nào về quyết định lên sàn? Và ông có lời khuyên gì cho các công ty cổ phần đang trên sàn?

Dù thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn khẳng định quyết định lên sàn là đúng đắn nhất. Nếu không lên sàn, SACOM giỏi lắm cũng chỉ làm được một vài nhà máy. Lương cho anh em cũng khá đấy, nhưng không đủ để tích lũy cơ bản. Nhờ lên sàn, mà anh em đều có nhà, có xe máy, xe tải, người có ô tô con.

Và gì đi chăng nữa, đối với tôi, nếu doanh nghiệp lên sàn mà làm ăn chân chính, được Nhà nước “cởi trói” tư duy thì vẫn phát triển. Làm tư nhân, 10 cái dự án thì có thể 1-2 cái sai, nhưng về tổng thể, vốn của mình vẫn ở đó, công ty vẫn sẽ đi tới.

Chúng ta không thể đòi hỏi làm 10 cái mà phải thắng cả 10 – thế thì chỉ có Thánh! Quan trọng là nếu vượt qua khó khăn, doanh nghiệp vẫn có cơ hội phát triển. Đặc biệt, với mô hình công ty cổ phần, chỉ cần Hội đồng Quản trị thống nhất ý chí, giao cho Ban điều hành thì chúng ta cứ thế mà tiến lên. Sai ở đâu thì sửa ở đó.

Cảm ơn ông đã dành thời gian chia sẻ!

Bài viết: Lương Nguyên – Hoàng Ly

Ảnh: NVCC, UBCKNN

Thiết kế: Hải An

Link gốc

Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/sam-mot-thoi-cua-doanh-nghiep-dau-tien-niem-yet—tu-nha-may-tro-xuong-ban-co-phan-khong-ai-ngo-den-thu-1700-ty-thang-du-ngay-truoc-dinh-khung-hoang/33279521

Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *