VIC: Từ chaebol xứ Hàn nhìn về câu chuyện nợ của Vingroup

Các chaebol Hàn Quốc sử dụng đòn bẩy tài chính rất cao trong thời kỳ phát triển công nghiệp và cao hơn đáng kể Vingroup của Việt Nam hiện nay – vốn cũng đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp.

Tháng 8 vừa qua, VinFast đã công bố kế hoạch tách một số tài sản thuộc về các dự án nghiên cứu và phát triển (R&D) đã hoàn thành sang một công ty mới thành lập là Công ty Cổ phần Nghiên cứu và Phát triển Novatech. Điểm đặc biệt là vốn điều lệ của công ty này lên tới gần 106.000 tỷ đồng.

Theo báo cáo của Công ty Chứng khoán Vietcap, bằng cách chuyển nhượng toàn bộ cổ phần của mình tại Novatech cho cá nhân tỷ phú Phạm Nhật Vượng – Chủ tịch HĐQT Vingroup, VinFast sẽ nhận về 39.800 tỷ đồng. Trước đó, tỷ phú Phạm Nhật Vượng đã tài trợ cho VinFast tổng cộng 28.000 tỷ đồng tính đến cuối quý II/2025.

Đây là cách thức huy động vốn hết sức đặc biệt của VinFast trong bối cảnh Vingroup đang dồn lực phát triển mảng công nghiệp. Theo ước tính của Forbes, tổng tài sản của tỷ phú Phạm Nhật Vượng ở mức khoảng 13,8 tỷ USD (tương đương trên 350.000 tỷ đồng). Việc Chủ tịch Vingroup dùng tài sản cá nhân để hỗ trợ VinFast là tín hiệu mạnh mẽ về cam kết với mảng công nghiệp ô tô.

Theo ước tính của Forbes, tổng tài sản của tỷ phú Phạm Nhật Vượng ở mức khoảng 13,8 tỷ USD (tương đương trên 350.000 tỷ đồng).
Việc phát triển mảng công nghiệp ô tô đương nhiên sẽ khiến quy mô nợ của Vingroup tăng lên so với trước đây. Vấn đề là, quy mô nợ của Vingroup hiện có ở mức hợp lý hay không?

Số liệu từ báo cáo tài chính hợp nhất của Vingroup cho thấy, tính đến hết quý II/2025, tổng nợ phải trả của tập đoàn này ở mức gần 800.000 tỷ đồng, trong đó tổng nợ tính lãi ở mức gần 283.000 tỷ đồng (bao gồm vay và nợ thuê tài chính và trái phiếu chuyển đổi). So với vốn chủ sở hữu, tổng nợ tính lãi của Vingroup bằng 1,78 lần.

Nhìn sang xứ Hàn

Từ khi Vingroup thông báo bước vào lĩnh vực sản xuất ô tô, giới đầu tư đã liên tưởng ngay đến mô hình phát triển của các chaebol Hàn Quốc: dồn nguồn lực phát triển mảng công nghiệp với sự hỗ trợ từ Chính phủ.

Sự trỗi dậy của các chaebol Hàn Quốc là một quá trình dài hơi. Sau chiến tranh Triều Tiên, phần lớn các tập đoàn lớn hiện nay như Samsung, Hyundai, LG hay Daewoo đều khởi đầu từ những lĩnh vực thương mại, xây dựng hoặc hàng tiêu dùng giản đơn. Khi chính phủ Hàn Quốc quyết định lấy công nghiệp và xuất khẩu làm động lực tăng trưởng, các tập đoàn này được lựa chọn như “cánh tay nối dài” của chiến lược quốc gia: họ nhận ưu đãi tín dụng, đất đai, bảo hộ thị trường và từ đó mở rộng mạnh mẽ vào những ngành mới mẻ và ngốn vốn khổng lồ như thép, đóng tàu, điện tử và ô tô.

Điều khó tránh khỏi là các tập đoàn phải “gánh lỗ” triền miên ở các ngành mới. Hyundai bắt đầu sản xuất ô tô từ giữa thập niên 1970 với mẫu Pony nhưng phải đến tận những năm 1990 mới gây dựng được chỗ đứng quốc tế, sau khi đã tiêu tốn nguồn vốn khổng lồ cho nhà máy, công nghệ và thị trường xuất khẩu. Samsung Electronics cũng có quãng thời gian dài đổ hàng tỷ USD vào bán dẫn trong khi chưa có lợi nhuận. Nhưng chính sự kiên định theo đuổi công nghiệp hoá, chấp nhận hy sinh lợi nhuận trong ngắn hạn, cùng với sự hỗ trợ chính sách quyết liệt từ nhà nước, đã giúp một số chaebol không chỉ vượt qua mà còn vươn lên trở thành tập đoàn toàn cầu. Đó là con đường không ít rủi ro, nhưng cũng là một trong những kinh nghiệm điển hình về cách một nền kinh tế nhỏ bé có thể bứt phá để trở thành cường quốc công nghiệp.

Sự kiên định theo đuổi công nghiệp hoá, chấp nhận hy sinh lợi nhuận trong ngắn hạn, cùng với sự hỗ trợ chính sách quyết liệt từ nhà nước, đã giúp một số chaebol không chỉ vượt qua mà còn vươn lên trở thành tập đoàn toàn cầu

Nghiên cứu “Korean Crisis and Recovery” của David T. Coe và Se-Jik Kim đã tiết lộ nhiều điều về tình hình tài chính của các doanh nghiệp Hàn Quốc nói chung và các chaebol nói riêng trong thời kỳ Hàn Quốc tiến hành “đại công nghiệp”.

Theo đó, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu trung bình của tất cả các công ty sản xuất Hàn Quốc tăng mạnh từ 1 lần vào đầu những năm 1960 lên 3 lần vào đầu những năm 1970. Kể từ đó đến năm 1998, tỷ lệ này thường duy trì trong khoảng 3-4 lần, có khi lên tới 5 lần.

Chi tiết hơn, nhóm tác giả này phân tách các công ty Hàn Quốc ra làm 3 nhóm bao gồm: Big5 (nhóm 5 chaebol lớn nhất), Big 30 (nhóm 30 chaebol lớn nhất) và Non-chaebol (các công ty không nằm trong nhóm 30 chaebol lớn nhất).

Nếu tính ở tất cả các ngành, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của nhóm Big5 và Big30 giai đoạn 1985 – 1998 dao động ở mức 3-5 lần, cá biệt năm 1997 trên 5 lần đối với nhóm Big30, trong khi nhóm Non-chaebol ở mức 2-4 lần.

Nếu chỉ tính riêng ngành sản xuất, nhóm Big30 là cao nhất khi tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu ở mức 3-5 lần trong giai đoạn 1985 – 1998; trong khi Big5 thấp hơn với mức 2-4 lần, cá biệt có năm 1997 trên 4 lần; còn nhóm Non-chaebol thường dao động quanh mức 2-3 lần.

Các số liệu này được nhóm tác giả tính toán từ dữ liệu lấy từ Ngân hàng Hàn Quốc, phân tích báo cáo tài chính và nhiều ấn phẩm khác; ngoài ra, một số dữ liệu là ước tính do National Information and Credit Evaluation cung cấp. Cần lưu ý thêm rằng, khác với ngày nay, các báo cáo tài chính ở giai đoạn đó hiếm khi được công bố công khai.

Tuy nhiên, có một điểm chưa rõ ở đây là tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu tính theo nợ phải trả hay nợ tính lãi? Nếu tính theo nợ tính lãi thì rõ ràng, các tỷ lệ trên của các chaebol Hàn Quốc trong thời kỳ phát triển công nghiệp cao hơn đáng kể so với mức 1,78 lần của Vingroup – một doanh nghiệp được xem như “chaebol của Việt Nam”.

Dẫu vậy, kể cả khi nợ của các chaebol Hàn Quốc không phải là nợ tính lãi mà bao gồm cả các khoản phải trả khác thì nhiều khả năng, tỷ lệ nợ tính lãi trên vốn chủ sở hữu của các chaebol Hàn Quốc thời kỳ đó vẫn ở mức cao. 

Cụ thể, nghiên cứu “Causes of the Korean Financial Crisis: Lessons for Policy” của Joon-Ho Hahm và Frederic S. Mishkin có cung cấp cơ cấu nợ của các doanh nghiệp Hàn Quốc trong giai đoạn 1990 – 1998, bao gồm: nợ vay ngân hàng, nợ vay từ các tổ chức phi ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp, nợ thông qua giấy tờ có giá ngắn hạn, nợ vay từ nước ngoài, các khoản phải trả và các loại nợ khác. Trong đó, có thể hiểu rằng nợ tính lãi bao gồm: nợ vay ngân hàng, nợ vay từ các tổ chức phi ngân hàng, trái phiếu doanh nghiệp, nợ thông qua giấy tờ có giá ngắn hạn, nợ vay từ nước ngoài.

Tính toán cho thấy, khoảng 70–75% tổng nợ là nợ tính lãi. Mặc dù đây là số liệu giai đoạn 1990 – 1998 nhưng cũng có tính chất tham khảo cho giai đoạn trước đó. Nếu lấy mức này làm tham chiếu, tỷ lệ nợ tính lãi trên vốn chủ sở hữu của các chaebol Hàn Quốc trong thời kỳ phát triển công nghiệp ở mức khoảng 2-4 lần.

Mặc dù mọi so sánh đều là khập khiễng như rõ ràng, để phát triển công nghiệp, doanh nghiệp sẽ cần nguồn lực rất lớn, trong đó, nguồn lực từ đi vay đóng vai trò rất quan trọng. Thành công hay không là câu chuyện ở tương lai nhưng nếu không làm thì chắc chắn không bao giờ thành công.

Đối với Vingroup, ngoại trừ VinFast, các công ty con của tập đoàn này được đánh giá là đều có khả năng tự duy trì để thực hiện các nghĩa vụ nợ và hoạt động kinh doanh, theo nhận định của Vietcap. Trong khi đó, Vietcap dự báo lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay (EBITDA) của mảng công nghiệp (chủ yếu là VinFast) sẽ duy trì âm trong trung hạn và dòng tiền được hỗ trợ bởi các nguồn tài trợ từ Vingroup và cá nhân tỷ phú Phạm Nhật Vượng. Vietcap cũng nhấn mạnh Vingroup hiện nay vẫn còn nhiều dư địa huy động vốn, bao gồm: Vay ngân hàng trong nước, phát hành trái phiếu trong nước, vay hợp vốn và phát hành trái phiếu quốc tế, cơ cấu lại tài sản; ngoài ra, việc niêm yết Vinpearl cũng mở ra nhiều cơ hội huy động vốn mới.

Thanh Long

Link gốc

Nguồn: https://stockbiz.vn/tin-tuc/vic-tu-chaebol-xu-han-nhin-ve-cau-chuyen-no-cua-vingroup/35364316

////////////khacnhaudoannay
Bài viết liên quan
Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *